Rối loạn định dạng giới tính / Lệch lạc giới tính (Gender Dysphoria)
Cảm nhận của mỗi con người về việc mình là nam hay là nữ chính là định dạng giới tính. Định dạng giới tính gần như phản ánh cơ quan sinh lý của một đứa trẻ: Trẻ sơ sinh có bộ phận sinh dục nam học được nó là con trai, còn những trẻ có bộ phận sinh dục nữ học được nó là con gái. Định dạng giới tính khác hẳn với vai trò giới tính – vốn là những tính cách, hành vi và kỹ năng được xác định là phù hợp với nam giới hoặc nữ giới tùy theo văn hóa mỗi nước.
Cảm nhận của mỗi con người về việc mình là nam hay là nữ chính là định dạng giới tính. Định dạng giới tính gần như phản ánh cơ quan sinh lý của một đứa trẻ: Trẻ sơ sinh có bộ phận sinh dục nam học được nó là con trai, còn những trẻ có bộ phận sinh dục nữ học được nó là con gái. Định dạng giới tính khác hẳn với vai trò giới tính – vốn là những tính cách, hành vi và kỹ năng được xác định là phù hợp với nam giới hoặc nữ giới tùy theo văn hóa mỗi nước. Giống như ở Việt Nam mình, đàn ông là phải giỏi giang, gánh vác được cả gia đình, đàn bà là phải giỏi chăm chồng chăm con. Còn ở Mỹ thì đàn ông phải ga lăng, mở cửa xe, kéo ghế cho bạn gái ngồi mới là quý ông lịch sự, phụ nữ thì có thể không lấy chồng, hoặc lấy chồng mà không sinh con là chuyện bình thường.
Ảnh: Simonethomas.com
Có một số người khẳng định rằng cơ quan sinh dục của họ và giới tính không phù hợp với nhau. Ở đàn ông, họ cảm thấy rằng mình là phụ nữ bị mắc kẹt trong cơ thể của một người con trai. DSM-5 xếp loại sự phiền muộn, khó chịu với cơ quan sinh dục là muộn phiền giới tính. Những người này không hẳn tin tưởng rằng họ thuộc về giới tính còn lại mà họ cảm giác rằng, ngoại trừ bộ phận sinh dục thì họ có xu hướng thiên về giới tính bên kia hơn.Những báo cáo về những người chuyển giới cho thấy họ nhận thức rõ những cảm giác khó chịu, phiền muộn này từ khi còn rất nhỏ. Nhiều báo cáo nói rằng họ mặc đồ và hành xử theo vai trò giới tính của giới tính còn lại. Nghĩa là đối với một bé trai mắc chứng này, sẽ có xu hướng mặc đồ và có hành vi như những bé gái. Mức độ nặng nề của sự khó chịu thay đổi tùy theo mỗi người. Nó sẽ ít dao động và dần dần chuyển nặng hơn khi đứa trẻ ấy bước vào tuổi vị thành niên với những sự thay đổi sinh lý cơ thể như con gái thì bắt đầu có ngực, và hông to ra, còn con trai thì bắt đầu thay giọng, mọc râu và có cơ bắp. Những đặc điểm này khiến đứa trẻ khó tham gia vào các hoạt động và hành xử theo giới tính trái ngược. Có rất nhiều trẻ trong độ tuổi này bắt đầu bận tâm với mong muốn phẫu thuật thay đổi cơ quan sinh dục.Mối liên hệ giữa muộn phiền giới tính và xu hướng tình dục đến nay vẫn còn nằm trong vòng tranh luận. Một số nhà khoa học nói rằng những người chuyển giới chính là những người đồng tính tự nhận mình thuộc về giới tính còn lại như một cách để tránh sự kỳ thị của xã hội và những giá trị đạo đức không ủng hộ quan hệ đồng tính. Ý kiến này không hợp lý vì hai điều, thứ nhất, đồng tính nữ và đồng tính nam không hề bất mãn với cơ quan sinh dục của họ. Điều này chứng tỏ những người chuyển giới không chỉ đơn giản là muốn trốn khỏi kỳ thị xã hội về đồng tính. Thứ hai, nghiên cứu cho thấy người chuyển giới và người đồng tính có xu hướng gợi dục khác nhau khi tiếp xúc với cùng một kích thích. Cái này tôi đoán là những nhà nghiên cứu dùng biểu đồ điện não để so sánh.Muộn phiền giới tính là một chứng bệnh tâm lý hiếm so với các bệnh tâm lý khác. Đàn ông chuyển giới sang đàn bà nhiều hơn là đàn bà chuyển giới sang đàn ông dựa trên tài liệu từ các văn phòng bác sĩ. Một số nghiên cứu ước tính tỷ lệ mắc chứng này là 1 trên 12,000 người với đàn ông và 1 trên 30,000 người với đàn bà.Khởi nguồn về giới tính ở đàn ông và đàn bà bình thường vẫn còn chưa biết rõ, thế nên chẳng lạ gì khi chúng ta không biết được nguyên nhân gây ra muộn phiền giới tính. Vì nhiều nguyên nhân mà nhiều người tin rằng định dạng giới tính bị ảnh hưởng mạnh bởi các chất hóc môn sinh dục, đặc biệt là trong thời kỳ mang thai. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trên động vật, nhưng đặc biệt nhất là những dữ liệu đến từ những người “song tính” (Pseudohermaphroditism). Những người này sinh ra theo di truyền học là đàn ông (XY) nhưng họ không thể sản xuất ra được hóc môn chịu trách nhiệm cho việc định hình cơ quan sinh dục (cây gậy và hai bé bi). Thế nên đứa trẻ sinh ra với hình dạng bộ phận sinh dục không phân biệt được là nam hay nữ.Nhiều đứa trẻ như thế này được nuôi dưỡng như con gái trong gia đình. Khi đến tuổi thành niên, hàm lượng hóc môn testosterone đột nhiên tăng cao dẫn đến nhiều sự thay đổi to lớn với bộ phận sinh dục, khiến nó dần dần trở nên giống bộ phận sinh dục nam hơn. Giọng nói của trẻ sẽ trở nên trầm hơn, cơ bắp nhiều hơn và đứa trẻ sẽ nhanh chóng nhận định nó là con trai. Tốc độ chấp nhận và sự thoải mái trong việc thay đổi, xác nhận giới tính nam ở những đứa trẻ này tạo nên giả thuyết rằng bộ não đã được lập chương trình về thay đổi, lựa chọn giới tính này từ khi còn là phôi thai.Đối với bạn, rối loạn định dạng giới tính và muộn phiền giới tính có gì khác nhau khi triệu chứng của hai chứng này gần như giống nhau? Đối với bạn có lẽ nó không có gì khác mấy ngoại trừ cái tên thay đổi nhưng đối với những chuyên viên chẩn trị tâm lý, đó là sự thay đổi rất lớn bao gồm luôn cả trọng tâm chẩn đoán bệnh. Nếu như ở DSM-4 nó là một bệnh (các tác giả dùng chữ Rối loạn – Disorder) thì ở DSM-5 họ không coi nó là bệnh. Trọng tâm chứng này nằm ở những nỗi phiền muộn khó chịu với giới tính làm cho những người mắc chứng này gặp khó khăn trong việc hòa nhập xã hội và làm việc (Bỏ chữ rối loạn, thay vào đó là buồn bực – Dysphoria). Phương pháp chữa bệnh tập trung vào việc giải tỏa những nỗi muộn phiền này. Trong phần cập nhật mới nhất cho DSM-5, các tác giả đã nói rõ rằng việc cảm thấy không thoải mái bực bội với giới tính của mình không phải là bệnh mà là những hệ quả từ việc không thoải mái này như khó chịu, trầm cảm mới là điều quan tâm chính của bệnh này. Điều này có thể thấy rõ từ phương thức chữa trị của chứng này .Dễ dàng nhận thấy có hai cách để chữa chứng này: một là thay đổi định dạng giới của một người để cho phù hợp với cơ quan sinh dục mà họ đang có. Hai là thay đổi bộ phận sinh dục để cho phù hợp với giới tính của một người. Có rất nhiều dạng chữa trị phân tâm học cố gắng thay đổi nhận định giới tính của một người (giống như thuyết phục người nam đang mắc chứng này rằng họ là nam, chứ không phải là nữ). Nhưng kết quả đến giờ đa số là tiêu cực.Một phương pháp khác nhận được nhiều phản hồi tích cực chính là phẫu thuật chuyển giới. Người làm phẫu thuật chuyển giới phải ít nhất 18 tuổi và trước khi thực hiện phẫu thuật phải trải qua một thời sống vài tháng với giới tính mà họ mong muốn chuyển thành để chắc rằng đó là cuộc sống mà họ muốn. Đa số những người thực hiện phẫu thuật chuyển giới xong, nhiều năm sau cho biết họ sống rất tốt, biểu hiện tích cực. Các bài kiểm tra tâm lý cũng cho thấy với những người hoàn toàn phẫu thuật xong thì mức độ trầm cảm và lo lắng giảm dần so với những người chưa làm phẫu thuật. Phẫu thuật chuyển giới chính là cách giải tỏa nỗi muộn phiền về giới tính và khiến cho những người đó có thể hòa nhập tốt hơn.
Ảnh: GenderTrender
Có nhiều bạn ủng hộ quan hệ, hôn nhân đồng tính giơ cao biểu ngữ cổ vũ “giới tính thứ ba”. Cái này là hoàn toàn không đúng. Không phải các bạn không đúng mà là biểu ngữ không đúng. Giới tính (Gender) chỉ có hai, chính là nam và nữ. Còn về quan hệ đồng giới, dị giới thuộc về khuynh hướng tình dục (Sexual orientation). Xu hướng tình dục có bốn loại, đồng tính, dị tính, song tính và vô tính. Ba loại trước các bạn hẳn đã biết. Vô tính (asexual) ở đây mang nghĩa người này không có xúc cảm tình dục hoặc có rất ít các hoạt động tình dục với bất kỳ ai. Một nghiên cứu vào năm 2004 xác định tỷ lệ người vô tính ở Anh là khoảng 1% dân số.Khuynh hướng tình dục và giới tính là hai khái niệm hoàn toàn khác biệt nhưng có rất nhiều bạn vẫn lầm lẫn hai khái niệm này. Đó cũng chính là một phần tranh luận của tôi với các thành viên của hai page mà tôi nói ở bài trên. Một thành viên trong đó lấy trích dẫn từ một cuốn sách phát hành năm 2014 của APA, In one perspective study of 66 boys with DSM-III diagnosis Gender Identity Disorder of Childhood, 75% subjects grew up identifying as gay men not as transgender. (Trong một nghiên cứu với 66 trẻ em trai được chẩn đoán mắc chứng rối loạn định dạng giới ở trẻ em, có khoảng 75% trong số này lớn lên tự nhận mình là đồng tính, chứ không phải là người chuyển giới).Sau đó bạn ấy bảo rằng, từ cái study này có thể kết luận được,“Đồng tính luyến ái không phải là rối loạn định dạng giới. Nhưng ngược lại, Rối loạn định dạng giới nếu không được phát hiện và chữa trị thì bệnh nhân sẽ chuyển biến thành Đồng tính luyến ái hoặc sẽ đi tiến hành chuyển đổi giới tính.”Kết luận này thiếu cơ sở và thiếu cả chính xác. Chỉ dựa vào một nghiên cứu mà đưa ra một kết luận chung với tất cả những người mắc chứng Muộn phiền giới tính là hơi cẩu thả và thiếu độ tin cậy. Hơn nữa, nghiên cứu này còn dùng DSM-III làm cơ sở chẩn đoán, thời điểm sách dùng trích dẫn là năm 1987, nghĩa là nghiên cứu được thực hiện trong năm đó hoặc còn lâu hơn nữa. Điều này nói lên cái gì, nói lên kết quả nghiên cứu này có thể không còn áp dụng được với những tiêu chuẩn mới hiện nay. Bạn nào học tâm lý học sẽ biết, một khi DSM thay đổi thì tất cả các sách tâm lý đều thay đổi. Điều thứ hai là trong nghiên cứu không đề cập đến việc những người mắc bệnh rối loạn định dạng giới có đi chưa trị hay không, nên không thể bảo Rối loạn định dạng giới không được phát hiện và chữa trị sẽ dẫn đến đồng tính.Muộn phiền giới tính/ Rối loạn định dạng giới tính là về những nỗi phiền muộn khi bị mắc kẹt trong cơ thể không phù hợp với giới tính của mình, chứ nó không liên quan gì đến xu hướng tình dục cả. Có nhiều trường hợp nhiều người đi chuyển giới xong về vẫn có những mối quan hệ đồng giới. Tôi đã xem vài video nói về những người nam chuyển giới sang nữ và sau khi chuyển giới xong họ có bạn đời là nữ. Đó chính là khuynh hướng tình dục của họ. Vì vậy không thể nói rằng Rối loạn định dạng giới dẫn đến Đồng tính luyến ái được. Cái này hoàn toàn sai lầm. Các bạn khi tìm nghiên cứu để đọc hoặc để viết, thì phải cẩn thận tránh việc kết luận cẩu thả như vậy. Một kết luận chung về một tập thể khó có thể dựa trên một nghiên cứu.Nguồn: Abnormal Psychology by Thomas F. Oltmanns, 7th edition
Theo Tĩnh Nguyệt