Suy buồng trứng sớm

Suy buồng trứng sớm là tình trạng ngừng hoạt động chức năng buồng trứng của phụ nữ ở độ tuổi khác nhau.

Tìm hiểu Suy buồng trứng sớm

suy-buong-trung-som

Suy buồng trứng sớm là tình trạng ngừng hoạt động chức năng buồng trứng của phụ nữ ở độ tuổi khác nhau.
Suy sớm buồng trứng, tần suất khoảng 1% trong phụ nữ, là một trong những nguyên nhân hiếm muộn mang nhiều lo lắng cho chị em phụ nữ.
Đồng thời, bệnh lý này cũng là thách thức rất lớn cho các chuyên gia hỗ trợ sinh sản trong việc điều trị hiếm muộn để mang lại hạnh phúc được làm cha mẹ cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh. Hiểu được bệnh lý này sẽ giúp cho người bệnh giảm bớt căng thẳng lo âu, giảm áp lực và chấp nhận kết quả điều trị một cách tốt hơn.
Đó cũng là một giải pháp tích cực trong quá trình điều trị đầy thử thách.
Trước đây, bệnh này được gọi là mãn kinh sớm, song thuật ngữ này không mô tả đúng thực trạng của người phụ nữ bị suy buồng trứng sớm vì mãn kinh chỉ xảy ra khi phụ nữ bước vào giai đoạn cuối năm 40 tuổi hay đầu năm 50 tuổi.
Nếu xảy ra ở phụ nữ trong độ tuổi sinh sản có thể gây nên tình trạng vô sinh. Nếu bạn đã trải qua thời kỳ mãn kinh tự nhiên, vô cùng hiếm khi thấy hành kinh trở lại; tuy nhiên, những người phụ nữ bị suy buồng trứng sớm có thể hành kinh trở lại dù không đều như trước. Người mãn kinh tự nhiên không thể có thai nhưng trong một vài trường hợp, suy buồng trứng sớm vẫn có thể mang thai.
Đây là đặc điểm nổi bật giúp ta khu biệt hiện tượng suy buồng trứng sớm với nhiều loại bệnh cùng chung triệu chứng.

Triệu chứng, biểu hiện Suy buồng trứng sớm

Dấu hiệu thường gặp nhất ở người suy buồng trứng sớm là rối loạn chu kỳ kinh nguyệt.
Nếu bạn dưới 40 tuổi và có chu kỳ kinh nguyệt không đều hoặc bị mất kinh từ 3 tháng trở lên thì bạn cần phải đến cơ sở y tế chuyên khoa đo nồng độ FSH trong máu để phát hiện suy buồng trứng sớm.
Bên cạnh đó, bệnh còn biểu hiện một số triệu chứng như: tính tình thay đổi, dễ bị kích động (hay cáu gắt, bực dọc… giống như người già); tóc bạc sớm; hay có cơn bốc nóng trên mặt, bốc hỏa, ra mồ hôi trán và đầu, vã mồ hôi về đêm; khó ngủ; ít quan tâm đến tình dục; âm đạo khô và đau khi quan hệ; khô da, ngứa da; hay nóng trong người, khát nước; đau lưng, mỏi gối; siêu âm thấy buồng trứng nhỏ lại, tử cung mỏng đi…

Nguyên nhân Suy buồng trứng sớm

Có nhiều nguyên nhân có thể giải thích cho bệnh lý suy buồng trứng sớm: có thể có liên quan đến nhiễm sắc thể, di truyền, các bệnh lý tự miễn, nhiễm vi khuẩn, hoặc là do can thiệp điều trị.
Tuy nhiên suy buồng trứng vô căn vẫn chiếm đa số trong các nguyên nhân (gồm những bệnh nhân có thoái hóa buồng trứng sớm và có hội chứng kháng buồng trứng). Thứ nhì là bệnh lý tự miễn, chiếm khoảng 30% các trường hợp.
Trong phôi bào, các tế bào mầm sinh dục sẽ di chuyển từ gờ sinh dục đến vị trí buồng trứng nguyên thủy, hình thành khoảng 3,5 - 4 triệu nang noãn ở mỗi buồng trứng lúc thai khoảng 20 tuần. Các tế bào mầm này sẽ bị mất đi từ từ bằng cơ chế chết theo chương trình, để còn khoảng 1 triệu nang noãn nguyên thủy mỗi bên lúc sinh.
Số lượng này cũng sẽ tiếp tục mất đi trong quá trình chiêu mộ, thoái hóa để phóng noãn. Và chỉ có khoảng 400 - 500 nang noãn sẽ được phóng thích trong suốt đời sống sinh sản của người phụ nữ. Suy buồng trứng sớm vô căn - cơ chế chưa rõ - ảnh hưởng đến tỉ lệ nang noãn chết theo chương trình. Do đó, ở những trường hợp này thường là có giảm nang noãn lúc sinh và có gia tăng sự thoái hóa.
Những nguyên nhân được kể đến ngoài nguyên nhân vô căn:
1. Bất thường di truyền
- Liên quan nhiễm sắc thể X
Tỉ suất di truyền chung khoảng 4%.
Các dạng thường gặp:
Khiếm khuyết nhiễm sắc thể X
+ Đơn chiếc nhiễm sắc thể X (monosomy X): hội chứng Turner
+ Ba chiếc nhiễm sắc thể X (trisomy X)
+ Thể khảm: 45X, 46XX, 47XXX
+ Mất đoạn nhiễm sắc thể X
Bất thường gen trên nhiễm sắc thể X
- Nhiễm sắc thể thường
Chuyển đoạn nhiễm sắc thể
Biến đổi gien trên nhiễm sắc thể thường, thụ thể FSH, thụ rhể LH…
2. Tổn thương buồng trứng do tự miễn
Các rối loạn tự miễn của những bệnh lý thuộc về nội tiết hay không thuộc về nội tiết đều có thể liên quan đến suy buồng trứng sớm.
Các bệnh lý tự miễn nội tiết bao gồm: bệnh lý tuyến giáp, suy tuyến cận giáp, tiểu đường…
Các bệnh lý tự miễn không liên quan nội tiết bao gồm: xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, bệnh bạch tạng, hói đầu, viêm khớp dạng thấp, bệnh lupus hệ thống…
Tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán suy buồng trứng do bệnh lý tự miễn là sinh thiết buồng trứng.
3. Kháng thể kháng buồng trứng
4. Các nguyên nhân khác
- Galacto máu: hiếm gặp
- Do điều trị:
+ Sau hóa trị: khả năng suy buồng trứng cao vì tế bào đang phân chia rất nhạy với sự gây độc tế bào của các loại thuốc dùng làm hóa trị.
+ Sau xạ trị: nguy cơ suy buồng trứng sớm cũng thấp nếu xạ trị ngoài vùng chậu, ảnh hưởng của xạ trị cũng tùy thuộc vào liều, tuổi bệnh nhân và vùng xạ trị.
+ Sau phẫu thuật vùng chậu: có khả năng gây tổn hại buồng trứng do tổn thương mạch máu ảnh hưởng đến lượng máu nuôi, hoặc gây viêm tại chỗ.
- Độc tố và virus:
Quai bị, hút thuốc, bệnh động kinh…

Các yếu tố, nguy cơ Suy buồng trứng sớm

Các yếu tố nguy cơ suy buồng trứng sớm bao gồm:
- Tuổi. Các nguy cơ suy buồng trứng tăng mạnh giữa tuổi 35 và 40.
- Tiền sử gia đình. Có tiền sử gia đình của suy buồng trứng sớm làm tăng nguy cơ phát triển chứng rối loạn này.

Chẩn đoán bệnh Suy buồng trứng sớm

Hầu hết phụ nữ có vài dấu hiệu của suy buồng trứng sớm, nhưng có thể sẽ có một cuộc kiểm tra thể chất, bao gồm khám phụ khoa.
Ngoài các biểu hiện nêu trên, còn có nhiều phương pháp khác để góp phần chẩn đoán như sinh thiết buồng trứng, siêu âm, đo nồng độ gonadotrophins máu. Tuy nhiên, siêu âm và sinh thiết buồng trứng không giúp ích được nhiều trong tiên lượng về khả năng sinh sản và sự rụng trứng về sau.
Ngay cả những trường hợp sinh thiết buồng trứng không có nang noãn nào vẫn có trường hợp được ghi nhận là có thai và có khoảng 41 - 60% bệnh nhân bị suy buồng trứng sớm siêu âm vùng chậu vẫn thấy cấu trúc giống nang noãn, có thể giải thích các nang này là do một nguyên nhân thứ phát gây ra hoàng thể hóa sớm.
Hiện nay xét nghiệm thường được dùng nhất để đánh giá dự trữ buồng trứng là đo nồng độ FSH và estrogen trong máu, khi có tình trạng suy buồng trứng sớm nồng độ này tăng cao (thường > 40IU/l) thử 2 lần cách nhau vài tuần và nồng độ estrogen thấp.
Một số xét nghiệm máu là rất quan trọng trong việc đưa ra một chẩn đoán. Chúng bao gồm:
Xét nghiệm mang thai. Xét nghiệm mang thai thường được thực hiện để loại trừ khả năng thai kỳ không mong muốn ở phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã mất chu kỳ kinh.
Kiểm tra hormone kích thích nang trứng. FSH là một hormone được sản sinh từ tuyến yên, kích thích sự phát triển của nang trứng trong buồng trứng. Phụ nữ bị suy buồng trứng sớm thường có mức độ cao bất thường của hormone kích thích nang trứng trong máu.
Xét nghiệm hormone hoàng thể hóa (LH). LH nhắc một nang trưởng thành trong buồng trứng giải phóng một quả trứng. Ở phụ nữ bị suy buồng trứng sớm, mức độ LH thường thấp hơn mức của hormone kích thích nang trứng.
Kiểm tra estradiol huyết thanh. Mức độ estradiol trong máu, một loại estrogen, thường thấp ở phụ nữ bị suy buồng trứng sớm.
Kiểm tra nhiễm sắc thể. Điều này là một xét nghiệm kiểm tra tất cả 46 nhiễm sắc thể để tìm kiếm bất thường. Một số phụ nữ bị suy buồng trứng sớm có thể chỉ có một nhiễm sắc thể X, thay vì hai hoặc có thể có nhiễm sắc thể khiếm khuyết khác.

Điều trị Suy buồng trứng sớm

Hiện vẫn chưa có phương pháp phục hồi chức năng hoạt động bình thường của buồng trứng trong điều trị suy buồng trứng sớm.
Sau khi các bác sĩ chuẩn đoán và làm một số xét nghiệm, tùy từng trường hợp để đưa ra phương pháp điều trị hormon thay thế (HRT) hay điều trị hiếm muộn.
Với điều trị hocmon thay thế: Nhằm giảm bớt các triệu chứng giống như hội chứng mãn kinh; rối loạn vận mạch, rối loạn chức năng tình dục, các vấn đề về da, tâm trạng, thể chất mệt mỏi… và ngăn ngừa hệ quả của sự thiếu hụt estrogen như tình trạng loãng xương.
Với điều trị hiếm muộn: Có rất nhiều phương pháp điều trị được thực hiện nhằm phục hồi chức năng của buồng trứng như dùng corticosteroid, oestradiol, clomiphene citrate, …
Tuy nhiên, cũng có khoảng 5-10% số bệnh nhân mang thai mà không cần điều trị. Những người khác muốn có thai cần áp dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh trong ống nghiệm: Lấy trứng của phụ nữ khác cho kết hợp với tinh trùng của chồng rồi đặt vào tử cung bệnh nhân.
Biến chứng:
Các biến chứng của suy buồng trứng sớm bao gồm:
- Vô sinh. Không có khả năng có thai là biến chứng đáng lo ngại nhất của suy buồng trứng sớm.
- Loãng xương. Hormone estrogen giúp duy trì xương chắc khoẻ. Phụ nữ với các mức thấp của estrogen có nguy cơ gia tăng phát triển yếu và giòn xương (loãng xương), trong đó có nhiều khả năng phá vỡ hơn là xương khỏe mạnh.
- Trầm cảm hoặc lo âu. Các nguy cơ vô sinh và các biến chứng khác phát sinh từ mức estrogen thấp có thể gây ra ở một số phụ nữ trở nên lo lắng hoặc trầm cảm.
- Suy chức năng tuyến giáp trạng: Tuyến giáp kiểm soát sự chuyển hóa của cơ thể và nồng độ năng lượng. Giảm hormon tuyến giáp ảnh hưởng đến chuyển hóa và làm cho phụ nữ có năng lượng rất thấp, với những triệu chứng như giảm tốc độ hoạt động của các cơ quan trong cơ thể, trí tuệ về thể chất và tâm trí, hai chân lạnh.
- Bệnh Addison: Đây là bệnh tự miễn dịch. Các tế bào miễn dịch lẽ ra bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn xâm nhập lại quay ra tấn công các tuyến thượng thận, làm cho tuyến này không bài tiết ra hormon có chức năng chống stress và điều hòa muối.
- Bệnh tim: Tuy rất hiếm xảy ra với phụ nữ trẻ bị suy buồng trứng sớm nhưng một số yếu tố có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh tim về sau này. Giảm nồng độ estrogen trong bệnh suy buồng trứng sớm có thể làm tăng nồng độ LDL-C (cholesterol xấu), nguyên nhân chính gây ra mảng bám và nghẽn tắc các động mạch, từ đó dẫn đến đột quỵ. Nồng độ thấp estrogen trong suy buồng trứng sớm cũng dẫn đến giảm nồng độ HDL-C (cholesterol tốt), chất giúp ngăn cản sự tạo thành nghẽn tắc ở các động mạch.

Phòng ngừa Suy buồng trứng sớm

1. Khi 'đèn đỏ' hãy bổ sung nhiều sắt
Trong những ngày 'đèn đỏ', cơ thể có thể mất đi một lượng lớn nguyên tố sắt mà sắt lại bổ sung dinh dưỡng cho buồng trứng. Do đó, trong thời gian này, chị em nên ăn nhiều rau và những thực phẩm giàu sắt như nội tạng động vật để giúp buồng trứng khỏe mạnh hơn.
2. Uống rượu vang có ích hơn bia
Theo phát hiện của Cơ quan nghiên cứu sức khỏe phụ nữ Hà Lan, mỗi ngày uống 1 cốc rượu vang sẽ giúp sự phát triển của trứng có thể tăng lên 20%. Chất polyphenol trong rượu vang đỏ có thể làm cho trứng khỏe mạnh, còn nấm men trong bia lại “thôi miên” trứng, giảm sự hoạt tính của trứng.
3. Ăn đậu phụ luộc tốt hơn đậu phụ rán
Protein thực vật có trong đậu phụ và sữa đậu nành giúp buồng trứng khỏe mạnh hơn. Nhưng ăn đậu phụ luộc sẽ tốt hơn rất nhiều so với đậu phụ rán, bởi vì trong dầu ăn dùng để rán đậu có chứa các axit béo không bão hòa, sẽ phá hủy hoạt tính của protein thực vật, làm giảm tác dụng của protein.
Mỗi ngày ăn 1 miếng đậu phụ nhỏ là đủ vì nạp quá nhiều protein thực phẩm sẽ gia tăng gánh nặng cho thận.
Thuốc tránh thai có hiệu quả nhưng vẫn có thể làm rối loạn nồng độ hormone trong cơ thể, ảnh hưởng tới chất lượng trứng.
4. Tránh thai hiệu quả để tránh phải phá thai ngoài ý muốn
Nghiên cứu y học cho rằng, mỗi lẫn phá thai, chất lượng trứng sẽ giảm 6%. Đừng tưởng rằng phá thai chỉ là một cuộc tiểu phẫu, nhưng hành động này sẽ khiến các thành trong buồng trứng mỏng đi.
Cách tránh thai tốt nhất là dùng bao cao su chứ không phải là thuốc tránh thai. Cho dù thuốc tránh thai có hiệu quả nhưng vẫn có thể làm rối loạn nồng độ hormone trong cơ thể, ảnh hưởng tới chất lượng trứng.
5. Hạn chế dùng thuốc giảm đau
Một cuộc điều tra phổ biến với hơn 4.000 phụ nữ châu Âu cho thấy, trong độ tuổi 25-35, bình quân mỗi người uống 77 viên thuốc giảm đau/năm, điều này sẽ khiến hoạt tính của trứng trong cơ thể thấp hơn 7% so với người không dùng thuốc giảm đau.
Theo các chuyên gia sức khỏe, thuốc giảm đau gây ức chế thần kinh não, uống trong thời gian dài sẽ làm “mê hoặc” trung khu não, tốc độ “ra chỉ thị” của não tới buồng trứng chậm, hoạt tính của buồng trứng cũng suy giảm theo.
6. Tránh bức xạ máy tính càng xa càng tốt
Nghiên cứu cho thấy, bức xạ máy tính sẽ ảnh hưởng tới chất lượng buồng trứng, nhất là khi bạn sử dụng gần vùng bụng. Nhưng việc tránh bức xạ máy tính một cách hoàn toàn là không thể.
Đa số mọi người đều tưởng rằng, đổi sang màn hình tinh thể lỏng là có thể tránh được bức xạ máy tính, nhưng thực ra có bức xạ lớn nhất không phải là màn hình mà là nguồn điện.
Theo các chuyên gia sức khỏe Mỹ, bức xạ máy tính bảng ít hơn rất nhiều so với máy tính để bàn, muốn tránh tối đa bức xạ máy tính, cách tốt nhất là nạp điện tốt cho máy tính bảng, rút nguồn điện, dùng pin để làm việc.

(nguồn mobifone)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 27-06-2022

    Nếu HIV không được điều trị, bệnh nhân sẽ nguy cơ cao bị suy giảm miễn dịch trầm trọng trong vòng 10 năm. Khi đó, cơ thể không còn khả năng chống lại nhiễm trùng và ngăn chặn ung thư phát triển. Giai đoạn muộn này được gọi là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS).

  • 29-11-2018

    Hậu môn là cơ quan cuối cùng của hệ thống tiêu hóa, có vai trò đóng mở cửa hậu môn giúp đào thải phân ra ngoài. Khi bị chèn ép bởi phân, trọng lượng cơ thể hay các loại vi khuẩn, hậu môn có thể phát sinh nhiều bệnh lý khiến người bệnh khó chịu. Dưới đây là danh sách các bệnh hậu môn thường gặp và cách nhận biết từng bệnh, từ đó đưa ra phương án chữa trị kịp thời.

  • 28-05-2018

    Bỏng đường hô hấp là một thể bỏng đặc biệt có tỷ lệ tử vong cao. Bỏng đường hô hấp là tình trạng tổn thương niêm mạc đường hô hấp ở các mức độ khác nhau do nhiều tác nhân gây ra. Tác nhân bỏng gây tổn thương trực tiếp cơ quan hô hấp hoặc nạn nhân thở hít phải khói khí nóng và các sản phẩm hóa học hình thành từ các chất bị cháy. 

  • 17-10-2018

    Bệnh trùng roi đường sinh dục nữ hay gọi là viêm âm đạo do trùng roi là một bệnh viêm đường sinh dục tiết niệu thường gặp ở phụ nữ do một loại ký sinh trùng (Trichomonas vaginalis) gây nên. Dưới kính hiển vi quang học, trùng roi trông giống hạt chanh

  • 11-12-2018

    Não là một bộ phận đóng vai trò quan trọng trong cơ thể. Não kiểm soát trí nhớ, sự nhận thức, các giác quan (nghe, nhìn, ngửi, nếm và xúc giác) và xúc cảm. Ngoài ra, não cũng kiểm soát những bộ phận khác như các cơ, các cơ quan và mạch máu. Những khối

  • 28-05-2018
    Cường giáp hay còn gọi là cường giáp trạng hoặc cường chức năng tuyến giáp. Đây là bệnh gây ra do tuyến giáp hoạt động quá mức cần thiết. Tuyến giáp là tuyến nội tiết quan trọng nằm ở cổ, tiết ra hormone tuyến giáp kiểm soát rất nhiều hoạt động của cơ