Rối loạn ăn uống

Rối loạn ăn uống có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng về thể chất và thậm chí có thể đe dọa tính mạng. Các chứng rối loạn ăn uống 1. Chứng nhịn ăn (Anorexia Nervosa): Người mắc chứng này lúc nào cũng thấy là mình quá mập và tự nhịn ăn cho đến khi chỉ còn

Tìm hiểu chung

Rối loạn ăn uống có thể gây ra vấn đề nghiêm trọng về thể chất và thậm chí có thể đe dọa tính mạng.
Các chứng rối loạn ăn uống:

  1. Chứng nhịn ăn (Anorexia Nervosa): Người mắc chứng này lúc nào cũng thấy là mình quá mập và tự nhịn ăn cho đến khi chỉ còn da bọc xương mà vẫn nhịn. Chứng này có thể đưa đến tử vong như đã nói trên.
  2. Chứng ăn nôn (Bulimia Nervosa): Người mắc chứng này ăn nhiều, cứ cho thức ăn vào miệng xong tìm cách nôn ra hết để khỏi lên cân.
  3. Chứng ăn nhiều (Binge Eating Disorder): Như tên gọi, người mắc chứng này có những bữa ăn thật nhiều nhưng không nôn ra.

Ngoài những hội chứng chính như trên, còn có những dạng khác như nôn mà không ăn nhiều, nhai và nhổ ra, và nhịn ăn nhưng không đến nỗi xuống cân quá nhiều.
Đa số những người Mỹ mắc những chứng trên là nữ trong tuổi từ 12 tới 25. Phái nam ít bị hơn ngoại trừ trường hợp chứng ăn thật nhiều.

Triệu chứng

Triệu chứng rối loạn ăn uống

Chứng nhịn ăn

Người mắc bệnh này thường có những triệu chứng như sau:

  • Xuống cân, có thể bằng cách tự làm nôn ra, dùng thuốc xổ, thuốc lợi tiểu hoặc vận động thật nhiều.
  • Không chịu giữ một mức cân vừa phải, đôi khi giữ mức cân dưới mức bình thường khoảng 15% hay ít hơn nữa.
  • Lúc nào cũng nghĩ thân hình của mình xấu và mập.
  • Kinh nguyệt rối loạn hoặc không có kinh.
  • Bồn chồn hoặc thi hành những “nghi lễ” cố định khi tới giờ ăn.
  • Mệt mỏi, hay chóng mặt.
  • Trầm cảm.
  • Tim đập không đều.
  • Hơi thiếu máu.
  • Móng tay và tóc dễ gẫy.

Chứng ăn-nôn

Triệu chứng gồm có:

  • Thường có những cơn ăn thật nhiều, gấp mấy lần số lượng ăn bình thường.
  • Cảm thấy không thể kiểm soát thói quen ăn uống của mình.
  • Sau khi ăn, tìm cách chống lên cân bằng cách tự làm nôn ra, uống thuốc xổ hay thuốc lợi tiểu, nhịn đói hay vận động cơ thể thật nhiều.
  • Quá chú ý một cách bất thường đến hình dạng thân thể và cân nặng.
  • Bị mất nước, mệt mỏi, yếu ớt.
  • Trầm cảm, bứt rứt.
  • Da khô, vàng.
  • Răng và lợi bị hư hoại do chất nước chua của bao tử khi nôn ra.
  • Má sưng lên do nôn thường xuyên.
  • Tim đập không đều.

Chứng ăn nhiều

Triệu chứng gồm có:

  • Thường có những cơn ăn thật nhiều, ít nhất là 2 lần/tuần.
  • Không kiểm soát được việc ăn của mình.
  • Cảm thấy xấu hổ, mặc cảm tội lỗi.
  • Mệt mỏi, đau các khớp xương.
  • Bị bệnh túi mật.
  • Huyết áp và cholesterol tăng cao.

Nguyên nhân gây bệnh

Nguyên nhân gây bệnh rối loạn ăn uống

Có nhiều yếu tố dẫn tới các chứng bệnh trên, như di truyền, cách sống của gia đình và xã hội.
Không có nguyên nhân chính nào của rối loạn ăn uống. Có nhiều yếu tố dẫn tới các chứng bệnh trên, như di truyền, cách sống của gia đình và xã hội, một vài cấu tạo trong óc khiến cảm xúc và sự ngon miệng bị rối loạn.
Trong văn hóa Tây phương hiện nay, hằng ngày các phương tiện truyền thông đều đưa ra hình ảnh một người đẹp thì phải gầy và những thông điệp này ăn sâu vào sự suy nghĩ của giới trẻ, nhất là phái nữ, đưa đến những suy nghĩ sai lạc về số cân 'lý tưởng của một cơ thể đẹp.
Chuyện này đưa đến việc nhịn ăn tối đa và bệnh hoạn. Đôi khi các em này cần phải được nhập viện vì đã bị suy dinh dưỡng đến mức nguy hiểm.

Biến chứng của rối loạn ăn uống

Biến chứng của rối loạn ăn uống

Biến chứng của bệnh nhịn ăn

  • Chết do xuống cân trầm trọng hoặc do tự tử.
  • Bệnh tim: tim đập không đều, cơ tim teo lại. Bệnh tim là một nguyên nhân thông thường gây ra tử vong cho người bệnh.
  • Rối loạn hormon: các rối loạn hormon sinh dục và tuyến giáp gây ra không có kinh, không thụ thai, không lớn được và mất khối xương.
  • Rối loạn nước và khoáng chất của cơ thể: do không ăn vào đầy đủ những chất này.
  • Tổn hại hệ thần kinh: chứng nhịn ăn gây ra tổn hại não và dây thần kinh, giật kinh và mất cảm xúc.
  • Bệnh về máu: do ăn không đủ những sinh tố như B12, cơ thể người bệnh bị thiếu máu vì không sản sinh đủ tế bào máu.
  • Rối loạn tiêu hóa: bón và chướng bụng.

Biến chứng của bệnh ăn - nôn

  • Hỏng răng và lợi do chất chua của dạ dày nôn lên miệng.
  • Nồng độ kali máu thấp do nôn thường xuyên, khiến bệnh nhân cảm thấy yếu ớt và tim đập không đều.
  • Bệnh tiêu hóa: nôn thường xuyên gây tổn thương thành thực quản và ruột.
  • Bệnh tâm thần: trầm cảm hoặc có những thúc đẩy mà bệnh nhân không kìm chế được như làm tình bừa bãi, ăn trộm, uống rượu và dùng ma túy.
  • Ghiền những thứ thuốc bệnh nhân dùng để nôn ra hoặc không lên cân.

Biến chứng bệnh ăn nhiều

  • Cholesterol máu cao, bệnh tim, bệnh tiểu đường, bệnh túi mật

Điều trị 

Điều trị rối loạn ăn uống
  • Càng sớm can thiệp khi bệnh mới bắt đầu thì kết quả càng khả quan.
  • Thời gian bình phục có thể mất hàng tháng hay hàng năm, nhưng phần lớn đều khỏi.
  • Những thay đổi trong hành vi ăn uống có thể là do sự phối hợp nhiều bệnh khác nhau gây ra, do vậy bước đầu tiên phải làm là khám sức khoẻ tổng quát.
  • Trong việc chữa trị, không chỉ có bác sĩ tâm lý mà còn bao gồm các bác sĩ thuộc chuyên ngành liên quan như dinh dưỡng, đồng thời phải chữa cả bệnh thể lý để đạt hiệu quả cao nhất.
  • Việc điều trị có thể bao gồm: Giúp tạo lại các thói quen ăn uống lành mạnh; đồng thời tác động về mặt tâm lí để giúp người bệnh thay đổi niềm tin và hành vi có hại liên quan tới ăn uống. Bên cạnh đó có thể dùng thuốc trị trầm cảm để làm giảm bớt tâm trạng lo âu.

Phòng ngừa

Phòng ngừa rối loạn ăn uống

Để phòng ngừa rối loạn ăn uống, vai trò của xã hội, nhất là của các phương tiện thông tin đại chúng là rất quan trọng.
Hiện đã có hình ảnh các diễn viên, người mẫu không còn quá gầy, gây ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của thanh, thiếu niên. Tuy nhiên, cần phải tuyên truyền, mới có nhiều người hiểu và nhận thức rõ giới hạn của cân nặng và chiều cao bình thường, không bị ám ảnh quá mức, kiêng khem quá mức mà dẫn đến suy dinh dưỡng hoặc bị các rối loạn khác.
Với trẻ nhỏ, rối loạn ăn uống hay xảy ra sau một ấn tượng xấu liên quan đến ăn uống như bị ép ăn quá mức, ăn quá đơn điệu; món ăn gợi nhớ lại một kỷ niệm buồn, một ám ảnh sợ hãi như bỏng, đau, sặc... Biểu hiện thường ở 2 dạng sợ ăn do tâm lý và nôn do tâm lý.
Trẻ mắc bệnh thường rất sợ thức ăn, dễ nôn hoặc nôn vọt khi bắt đầu bữa ăn, thậm chí chỉ cần ngửi thấy mùi thức ăn hay nhìn thấy chén dĩa đựng thức ăn đã bị nôn. Lúc đầu trẻ chỉ sợ một vài món, sau đó sẽ sợ ăn và chuyển dần đến suy dinh dưỡng và bị các biến chứng của suy dinh dưỡng. Trẻ mắc chứng cuồng ăn sẽ dễ bị kích động, ưa bạo lực.
Việc thay đổi hợp lý các món ăn, thay đổi môi trường ăn thích hợp, ăn đúng phương pháp, không ép ăn quá mức và ăn đúng thời điểm sẽ giúp ngăn ngừa và điều trị hiệu quả hơn.
Phụ huynh của trẻ bị chán ăn và nôn do tâm lý cũng cần được tư vấn kịp thời.

(Nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Vàng da ở trẻ sơ sinh là tình trạng thường gặp ở trẻ sơ sinh làm cho da và mắt của trẻ có màu vàng, xảy ra khi có quá nhiều bilirubin trong máu.
  • 28-05-2018
    Tuyến thượng thận là cơ quan nội tiết quan trọng của cơ thể, vị trí gần với thận. Ung thư tuyến thượng thận là u ác tính trên tuyến thượng thận. Thể tích tuyến thượng thận tuy nhỏ, nhưng khối u lại to, thông thường đường kính nhỏ hơn 3cm là u nhỏ, u
  • 17-10-2018

    Não úng thủy (hydrocephalus) có nguồn gốc từ hai chữ: ” hydro” có nghĩa là nước, và “cephalus” đề cập đến “não” (còn gọi là bệnh đầu nước).

  • 28-05-2018
    Rung nhĩ (hay rung tâm nhĩ) là một loại rối loạn nhịp tim. Bệnh xảy ra khi tim có hiện tượng một nhịp tim đập bất thường, hay còn gọi là loạn nhịp. Khi tim bị loạn nhịp, các cơ trông như đang rung thay vì co lại như thông thường.
  • 28-05-2018
    Bệnh bụi phổi atbet là một bệnh xơ hoá phổi, có hoặc không có kèm theo tổn thương xơ hóa phổi và tạo thành các hạt như hạt silicô. Bệnh bụi phổi atbet hoàn toàn khác bệnh bụi phổi silic, do thở hít bụi atbet hay bụi amiăng. Người ta thấy các sợi amiăng
  • 28-05-2018
    Chứng cương dương vật là dương vật bị cương không mong muốn kéo dài trong vài giờ. Hai dạng chính là cương dương vật lưu lượng máu thấp và lưu lượng máu cao. Dạng thứ nhất xảy ra do máu khó thoát ra khỏi dương vật. Dạng thứ hai là do quá nhiều máu chảy