Lao ruột

1. Mô tả Bệnh tuy không thường gặp nhưng rất nguy hiểm vì khó chẩn đoán và điều trị, tỷ lệ biến chứng lớn. Tỷ lệ tử vong do lao ruột là 11%. 2. Phân loại Lao ruột có hai loại, thường gặp là lao ruột thứ phát sau lao phổi, lao thực quản, lao họng hầu,

Lao ruột là bệnh gì?

Mặ cduf không phổ biến nhưng bệnh lao ruột rất nguy hiểm vì khó chẩn đoán và điều trị, tỷ lệ biến chứng lớn. Tỷ lệ tử vong do lao ruột là 11%.

Phân loại bệnh lao ruột

Lao ruột có hai loại:

  • Thường gặp là lao ruột thứ phát sau lao phổi, lao thực quản, lao họng hầu, lao màng bụng. Có nhiều đường lây nhiễm vi khuẩn lao vào ruột, trong đó chủ yếu là theo đường tiêu hóa (do nuốt phải đờm, dãi, chất nhày của người nhiễm vi khuẩn lao hoặc uống sữa bò bị nhiễm vi khuẩn lao), nguyên nhân ít gặp hơn là lây nhiễm theo đường máu, đường bạch huyết, đường mật, hoặc đường tiếp giáp từ các cơ quan bị lao lân cận sang.
  • Lao tiên phát ít gặp hơn là vi khuẩn lao khu trú ngay ở ruột rồi mới phát triển sang cơ quan khác. Bệnh thường xuất hiện ở người trong độ tuổi lao động, nhất là lứa tuổi 30 - 55.

Triệu chứng và biểu hiện của bệnh lao ruột

Triệu chứng cơ năng

  • Chủ yếu là các biểu hiện bệnh lí đường ruột: thức ăn, buồn nôn, thường được bệnh nhân, có khi thầy thuốc dễ cho là bệnh lao phổi sẵn có, nếu không thêm các triệu chứng tiêu hoá khác.
  • Đau bụng, thường đau nhiều hơn ở hố chậu phải.
  • Rối loạn đại tiện: thông thường là ỉa chảy kéo dài, có thể kém theo ỉa máu.
  • Một số trường hợp lại bị táo bón hoặc xen lẫn ỉa chảy với táo bón.
  • Đầy hơi và hơi sôi bụng khu trú ở vùng hố chậu phải.

Triệu chứng toàn thân

  • Sút cân và mệt mỏi mặc dù bệnh lao phổi tiến triển tốt.
  • Có thể vẫn có sốt nhẹ về chiều như triệu chứng bệnh lao nói chung.

Triệu chứng thực thể

Tùy từng thể bệnh mà có biểu hiện khác nhau.

Triệu chứng thực thể đơn độc trong lao hồi – manh tràng thể loét:

  • Trong thể lao xơ hồi tràng đoạn cuối thường có khối mềm, tròn, có khi có nhu động kín đáo xuất hiện vài ba giờ sau bữa ăn vùng hố chậu phải rồi tự mất đi sau vài tiếng sôi bụng.
  • Trong thể lao xơ manh tràng có một khối u rõ rệt, hằng định, thuôn dài, trục lớn nằm dọc theo hướng đại tràng lên. Khối u có thể to hay nhỏ, nhẵn hoặc mấp mô; mật độ thường chắc và cứng hẳn và hơi đau, bờ phải của khối u thường được phân định rõ ràng hơn bờ trái, cực dưới của khối u có thể sờ đụng được khi thăm trực tràng, cực trên thường không phân định được rõ rệt khi sờ nắn bụng

Triệu chứng cận lâm sàng

  • Tăng lympho bào trong công thức máu và tốc độ lắng máu tăng chỉ có một giá trị tương đối và chủ yếu chỉ đánh giá sự tiến triển của bệnh sau khi đã xác định được là lao ruột.
  • Các xét nghiệm đặc hiệu về lao chỉ có giá trị nếu phản ứng Mantoux dương tính (hoặc mới chuyển sang dương tính đối với lao ruột tiên phát). Cần lưu ý là trong giai đoạn cuối của bệnh lao, phản ứng có thể âm tính (trạng thái vô dị ứng).
  • Các hình ảnh X quang chụp bụng không chuẩn bị có thể thấy các hạch mạc treo vôi hoá. Chủ yếu là các hình ảnh X quang chụp ruột với bữa ăn baryt; có giá trị chẩn đoán cao, bộc lộ rõ hết các nếp niêm mạc và các thương tổn ở đoạn cuối hồi tràng mành.
  • Chụp sớm ở giai đoạn đầu có thể thấy van Bauhin phì đại và những hình khuyết, xuất hiện nhiều ở hồi tràng, hình tròn hoặc hình trứng, kích thích chỉ bằng hạt đậu nhỏ, bờ điều đặn. Chụp khi bệnh đã sang giai đoạn loét, có thể các hình ảnh của cả hai quá trình phá hủy và tái tạo, thể hiện bởi các biểu hiện thâm nhiễm thành ruột.
  • Các ổ loét ở ruột non: biểu hiện bằng các hình đọng thuốc, có định, hình tròn hoặc bầu dục, có khi nằm giữa một vùng sáng hoặc hơi mờ, cũng có khi chỉ là một vết hình đầu đinh với các nếp niêm mạc quy tụ. Chụp cắt nghiêng, các ổ loét thể hiện bằng các gai tam giác, đáy rộng, gắn vào bờ ruột hoặc hố rõ rệt, mông, đáy phẳng, các ổ loét ở manh tràng thường hiếm hơn và cũng mông, có khi chỉ biểu hiện bằng những vùng mất nếp nhăn, niêm mạc hoặc bờ manh tràng có hình ảnh bị gặm nhấm, không đều.
  • Sự thâm nhiễm thành ruột biểu hiện bằng tính chất cứng đờ của quai hờ manh tràng, bờ manh tràng thẳng và cứng, van Bauhin phì đại. Chụp khi quá trình xơ hoá chiếm ưu thế, có thể thấy hình manh tràng bị co rút toàn bộ, chiều dọc lẫn chiều ngang, bờ trong và bờ ngoài khác nhau có khi chỉ còn một vệt baryt đi qua, hình dáng nham nhở.
  • Van Bauhin cứng không đảm bảo chức năng của van hoặc ngược lại cản trở lưu thông từ hồi tràng xuống manh tràng.
  • Các phương pháp nội soi có thể hỗ trợ thêm cho nhận định của X-quang trong trường hợp chưa được ống soi đại tràng lên đến manh tràng, ít có khả năng nội soi được đoạn cuối hồi tràng, có thể nhận thấy ở niêm mạc manh tràng, các hạt kê trắng rải rác đều trên niêm mạc hoặc những ổ loét nông, bờ mỏng và tím bẩn, có thể chảy máu ở bờ hoặc đáy ổ loét.
  • Hoặc một khối u, chắc, mặt không đều, thâm nhập hết vùng manh tràng, thường làm hẹp khá nhiều manh tràng, không thể đưa ống soi lọt qua được. Tất nhiên cùng với nội soi manh tràng, cần sinh thiết những thương tổn nói trên hoặc những điểm nghi ngờ để xác minh bằng phẫu thuật bệnh học.

Trong trường hợp không có phương tiện nội soi đại tràng hoặc không đưa được ống soi lên tới manh tràng, có thể soi ổ bụng để nhận định thanh mạc manh tràng và phúc mạc gần đấy; có thể chỉ thấy một phản ứng viêm dính không đặc hiệu ở phúc mạc vùng đó những hạt lao kê trên thanh mạc manh tràng và phúc mạc. Cũng có khi thấy một ít dịch viêm trong ổ phúc mạc, nếu bệnh lao đã lan nhiều vào phúc mạc.

Nguyên nhân gây bệnh lao ruột

Các tác nhân gây bệnh gồm vi khuẩn lao ở người và các loại khuẩn lao của bò, chim…
Chúng xâm nhập trực tiếp qua đường ăn uống, chủ yếu do dùng sữa bò tươi và các chế phẩm của sữa có trực khuẩn lao bò, bú sữa mẹ, sử dụng thức ăn và nước uống nhiễm trực khuẩn lao.
Trong nhiều trường hợp, bệnh xuất hiện do vi khuẩn từ một ổ lao khác (đặc biệt là phổi) trên cơ thể đi qua đường máu, đường mật để vào ruột.

Biến chứng bệnh lao ruột

Biến chứng của bệnh lao ruột bao gồm:

  • Hẹp ruột, gây bán tắc hoặc tắc ruột.
  • Viêm phúc mạc do thủng ổ loét.
  • Xuất huyết ở ruột do vỡ mạch máu ở ổ loét.
  • Lồng ruột.

Chẩn đoán bệnh lao ruột

Chẩn đoán xác định

  • Yếu tố gợi ý: rối loạn đại tiện, nhất là ỉa chảy kéo dài ở một bệnh nhân có thương tổn lao ở bất cứ tạng nào, chủ yếu ở phổi.
  • Yếu tố nghi ngờ: khối u mềm hoặc chắc sờ được ở hố chậu phải của một bệnh nhân có các yếu tố gợi ý nói trên.
  • Yếu tố xác định: các hình ảnh X-quang hoặc nội soi kết hợp với sinh thiết chứng minh có thương tổn lao, các xét nghiệm đặc hiệu về lao với các điều kiện đã nêu ở trên.

Điều trị bệnh lao ruột

Điều trị nội khoa

Chế độ ăn

Ăn đủ chất, nhất là đạm, vitamin, không nên ăn nhiều thức ăn dạng bột.

Thuốc

  • Thuốc điều trị nguyên nhân (diệt vi khuẩn lao): cần phải phối hợp 2 hoặc 3 trong các loại thuốc sau: Rfamixin, Ethambutol, INH, Streptomyxin.
    • Điều trị tấn công: 2 - 5 tháng.
    • Điều trị củng cố: 12 - 18 tháng.
  • Thuốc điều trị triệu chứng:
    • Chống đau bụng:
      • Atropin 1/2mg x 1 ống tiêm dưới da.
      • Hoặc Belladol (cồn dung dịch 10%) x giọt/ngày.
    • Băng xe niêm mạc, chống ỉa chảy:
      • Tanin: 3 - 5g/24 giờ cho đến khi hết ỉa lỏng.
      • Kaolin: 10 - 20g/24 giờ.

Điều trị ngoại khoa

Phẫu thuật chỉ đặt ra khi có biến chứng: thủng, tắc ruột.

Phòng ngừa bệnh lao ruột

  • Khi có các biểu hiện bệnh, cần phải đi khám bệnh để được chẩn đoán và điều trị kịp thời, tránh để bệnh tiến triển nặng, gây biến chứng nguy hiểm đối với bản thân, mặt khác gây ô nhiễm môi trường và là nguồn lây nhiễm cho cộng đồng.
  • Phát hiện và điều trị sớm sẽ làm giảm bớt tỷ lệ mắc bệnh và tử vong, đóng góp tích cực cho chương trình chống lao quốc gia, để bệnh lao ở Việt Nam sẽ sớm được thanh toán.

Theo Sức khỏe & Đời sống 

- 17-10-2018 -

Bài viết liên quan

  • 20-04-2021
    Là tình trạng ngón chân cái vẹo vào trong phía các ngón chân khác, khớp bàn ngón chân cái sẽ biến dạng gồ lên. Trọng lực cơ thể khi đứng và bước đi sẽ dồn lên khớp bàn ngón chân cái nên có thể gây ra tình trạng đau đớn tại khớp này mỗi khi bước đi,
  • 28-05-2018
    Khô âm đạo xảy ra khi âm đạo bị mất độ ẩm thông thường (hoặc chất bôi trơn tự nhiên), làm cho người bệnh cảm thấy khó chịu và đau. Bệnh còn khiến sinh hoạt tình dục trở nên không thoải mái.nNhững ai thường bị khô âm đạo?
  • 28-05-2018
    Giảm thị lực Trong vòng vài giờ đến vài ngày, có khi chỉ sau 1 đêm ngủ dậy, bệnh nhân nhìn mờ đi nhanh chóng. Thị lực có thể giảm ít hay nhiều tùy vào từng bệnh nhân; đôi khi bệnh nhân đến với tình trạng chỉ còn nhận thức được sáng tối. Trước khi giảm
  • 28-05-2018
    Loét giác mạc xuất hiện khi toàn bộ các lớp tế bào giác mạc bị tổn thương và có hiện tượng tiếp xúc giữa các hốc bên trong mắt với môi trường khí bên ngoài. Loét giác mạc có thể xuất hiện ở trạng thái vô trùng (không có triệu chứng nhiễm khuẩn) hoặc
  • 28-05-2018
    Triệu chứng của cơn động kinh rất đa dạng. Một số bệnh nhân động kinh chỉ có triệu chứng là nhìn vô hồn trong vài giây, trong khi có những người khác lại có thể bị co giật tay hoặc chân lặp đi lặp lại.
  • 28-05-2018
    Đi tiểu ra máu là một triệu chứng rất thường gặp ở mọi nơi, mọi lứa tuổi, nam cũng như nữ. Tập thể dục quá nặng, một số thuốc thông thường như aspirin cũng có thể gây ra máu trong nước tiểu. Một số trường hợp tiểu ra máu không nguy hiểm, thậm chí tự