Viêm đường hô hấp

Hệ hô hấp của chúng ta được tính bắt đầu từ cửa mũi trước đến tận các phế nang trong phổi. Đường hô hấp trên bao gồm mũi, hầu, họng, xoang và thanh quản. Hệ thống hô hấp trên có chức năng chủ yếu là lấy không khí bên ngoài cơ thể, làm ẩm, sưởi

Tìm hiểu Viêm đường hô hấp

viem-duong-ho-hap

Hệ hô hấp của chúng ta được tính bắt đầu từ cửa mũi trước đến tận các phế nang trong phổi. Đường hô hấp trên bao gồm mũi, hầu, họng, xoang và thanh quản. Hệ thống hô hấp trên có chức năng chủ yếu là lấy không khí bên ngoài cơ thể, làm ẩm, sưởi ấm và lọc không khí trước khi đưa vào phổi. Các bộ phận của đường hô hấp dưới một phần chức năng thực hiện lọc không khí và phần chức năng còn lại là trao đổi khí.
Là cơ quan đầu ngoài cùng tiếp xúc với không khí nên hầu như mọi điều kiện bất lợi của môi trường đều do đường hô hấp trên gánh chịu hết như bụi, lạnh, nóng, hơi độc, kể cả các virus, vi khuẩn, nấm mốc. Bởi thế, nếu xét về tỷ lệ mắc bệnh hô hấp thì tỷ lệ bệnh mắc đường hô hấp trên chiếm phần lớn so với tỷ lệ mắc các bệnh về hô hấp khác. Viêm đường hô hấp trên là một chứng bệnh thường gặp hàng năm, mắc tái diễn, nhiều lần và là một chứng bệnh chủ yếu gây giảm giờ làm và giờ học của nhóm người mắc bệnh trên toàn thế giới. Mặc dù là loại bệnh “tự khỏi” nhưng những phiền toái do chúng gây ra cũng đủ tạo ra những thiệt hại đáng kể về sức khoẻ và kinh tế.
Bệnh viêm đường hô hấp trên thường xuất hiện theo mùa, nhất là mùa đông. Đối tượng mắc bệnh chủ yếu thường là trẻ em.

Triệu chứng, biểu hiện Viêm đường hô hấp

Viêm đường hô hấp trên không phải là một bệnh mà là một tổ hợp bệnh bao gồm: cảm lạnh, viêm mũi họng, viêm họng, viêm xoang, viêm thanh quản. Mặc dù có nhiều bệnh đơn lẻ khác nhau nhưng chúng đều có một số biểu hiện chung rất dễ nhận thấy. Những triệu chứng chủ yếu bao gồm: sốt cao, hắt hơi, sổ mũi, chảy mũi, ngạt mũi, tắc mũi, đau rát họng, ho, khàn tiếng, lạc tiếng, giọng mũi, khản đặc có khi mất tiếng, mệt mỏi, đau đầu, đau mỏi cơ khớp…
Đặc điểm quan trọng của viêm đường hô hấp trên là thời gian ủ bệnh ngắn, tốc độ biểu hiện bệnh nhanh và các biểu hiện mang tính ồ ạt. Chính vì thế mà sốt trong các bệnh của viêm đường hô hấp trên thường là sốt cao và thành cơn. Thân nhiệt thường là 39oC trở lên. Đi kèm với sốt là hắt hơi, sổ mũi, người bệnh hắt hơi nhiều hơn mức bình thường, có khi đến 4-5 cái/ lần và xuất hiện nhiều lần trong ngày. Có khi hắt hơi đến rát cả mũi họng. Sau đó người bệnh sẽ bị chảy dịch mũi với đặc điểm dịch nhiều, trong, loãng, không có mủ và không có mùi hôi.

Nguyên nhân Viêm đường hô hấp

Bằng những nghiên cứu và thử nghiệm khoa học, người ta thấy đa phần nguyên nhân gây ra viêm đường hô hấp trên là các virus. Có thể kể ra đây một số loại virus điển hình như: virus Rhino, Corona, Á cúm Parainfluenza, Adeno, virus hô hấp hợp bào RSV.
Nhóm virus trên gây bệnh bằng cách cư trú ở chất nhầy niêm mạc mũi họng. Chúng sẽ nằm ở đó, xâm nhập vào tế bào niêm mạc, nhân bản rồi phá huỷ tế bào và lây lan sang tế bào bên cạnh. Cơ thể sẽ kháng cự lại với các kháng thể IgA sẵn có và đội quân bạch cầu bảo vệ. Thông thường sẽ có một vài tế bào niêm mạc hô hấp bị tổn thương và bị virus phá huỷ nhưng sau khoảng 2 tuần lớp tế bào mới lại mọc lên và đẩy lùi virus. Nhưng trong một số trường hợp, cơ thể tiêu diệt không hiệu quả, virus từ đường hô hấp trên sẽ nhân bản và xâm nhập xuống tận đường hô hấp dưới và vào máu gây nhiều bệnh biến thể khác.
Ngoài ra chúng ta có thể gặp các nguyên nhân khác như vi khuẩn, nấm, bụi, khí độc. Một số loại vi khuẩn cũng thường gặp trong bệnh viêm đường hô hấp trên là liên cầu khuẩn tan máu nhóm A, phế cầu khuẩn, Haemophilus influenzae, một số loại nấm...
Trong trường hợp căn nguyên do vi khuẩn thì ít khi vi khuẩn gây bệnh một mình mà chúng thường được khởi phát bằng sự nhiễm và gây viêm của một loại virus trước đó. Tỷ lệ cao thuộc về liên cầu khuẩn tan máu nhóm A. Đây là vi khuẩn hàng đầu gây biến chứng viêm cầu thận cấp ở trẻ em từ một viêm họng thông thường.

Các yếu tố, nguy cơ Viêm đường hô hấp

Bệnh viêm đường hô hấp trên thường xuất hiện theo mùa, nhất là mùa đông, mùa hanh khô, trùng với mùa của bệnh hen, viêm phế quản mạn, viêm phổi.
Đối tượng mắc bệnh chủ yếu thường là trẻ em. Tính trên toàn thế giới, hàng năm có hàng triệu trẻ em mắc bệnh.
Bên cạnh đối tượng là trẻ em, những người dễ mẫn cảm với viêm đường hô hấp trên bao gồm người bị bệnh bạch cầu (leukemia), suy tủy, suy giảm miễn dịch sau ghép tạng, điều trị ức chế miễn dịch ở những bệnh tự miễn, HIV… Vì thế, ở những đối tượng này cần được chăm sóc dự phòng, đặc biệt vào mùa lạnh, mùa hanh khô.

Chẩn đoán bệnh Viêm đường hô hấp

Chẩn đoán chủ yếu dựa vào các triệu chứng để phân biệt nguyên nhân, đặc biệt là các triệu chứng sau đây:
- Đau họng.
- Ho.
- Đau tai.
- Sổ mũi.
- Nghẹt mũi.
- Chóng mặt.
- Mệt mỏi, uể oải.
- Khó nuốt (khi ăn hoặc uống).
Đặc biệt chú ý tìm các dấu hiệu:
- Áp-xe quanh amiđan.
- Viêm amiđan.
- Viêm tai giữa.
- Nhiễm trùng ở lồng ngực.

Điều trị Viêm đường hô hấp

Bệnh chưa có thuốc đặc trị, vì vậy chủ yếu là điều trị triệu chứng, phát hiện và xử lý kịp thời tình trạng suy hô hấp, suy thận.
- Người nhiễm virus mới tùy theo cấp độ nặng nhẹ mà có các xử lý khác nhau. Bệnh chưa có thuốc đặc trị, vì vậy chủ yếu là điều trị triệu chứng, phát hiện và xử lý kịp thời tình trạng suy hô hấp, suy thận. Nếu sau 5 ngày điều trị, người bệnh hết sốt, mạch, huyết áp, X-quang phổi cải thiện, chức năng thận trở lại bình thường thì có thể xuất viện.
- Tuy nhiên, sau khi về nhà, người bệnh phải tự theo dõi nhiệt độ 12 giờ/lần, nếu nhiệt độ sốt cao hơn 38oC ở 2 lần đo liên tiếp hoặc có dấu hiệu bất thường khác, phải đến khám lại tại nơi đã điều trị.
- Tại bệnh viện có bệnh nhân viêm đường hô hấp cấp do virus Corona chủng mới, cần cách ly và vệ sinh, khử khuẩn tiệt trùng đối với những dụng cụ và người nhà, nhân viên y tế tiếp xúc với bệnh nhân…
- Bộ Y tế khuyến cáo người dân cần rửa tay bằng xà phòng thường xuyên, đeo khẩu trang khi ra đường, khi đến chỗ đông người và khám bệnh khi có các triệu chứng hô hấp; đảm bảo chế độ ăn đầy đủ, không hút thuốc lá, duy trì thông khí ở nơi ở và nơi làm việc, tránh tụ tập nơi đông người…
Biến chứng:
Một trong các biến thể nghiêm trọng là tử vong do đồng nhiễm với bệnh đường hô hấp dưới và chúng tự làm nặng lẫn nhau. Biến thể cũng hay gặp đó là biến chứng viêm đường hô hấp dưới nếu viêm đường hô hấp trên không được xử trí đúng đắn và đúng mức. Do đó, với một bệnh hết sức thông thường như cảm lạnh trong mùa đông thì có thể đưa đến viêm phổi, nhất là ở trẻ em. Ngoài những biến chứng này thì viêm đường hô hấp trên thể nặng, thể do vi khuẩn dễ gây ra những biến chứng cơ thể khác như viêm não, viêm tim, viêm cầu thận, thấp khớp cấp.

Phòng ngừa Viêm đường hô hấp

Cho đến nay, bệnh viêm đường hô hấp trên đã có nhiều phương án điều trị. Nhưng vì chủ yếu là do virus gây ra nên tất cả những phương án đó đều là những phương án điều trị triệu chứng mà chưa có điều trị căn nguyên.
- Các thuốc chủ yếu được sử dụng là thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm dòng NSAID nhằm ngăn chặn sốt quá cao và tai biến co giật do sốt cao.
- Thuốc kháng histamin nhằm ngăn chặn giải phóng quá nhiều chất trung gian hóa học gây viêm do cơ chế phản ứng đôi khi là quá mức. Còn lại là dựa vào sức đề kháng của người bệnh và chờ cho đến khi cơ thể tự đào thải virus.
- Trong chứng bệnh này, biện pháp dự phòng được đặt lên hàng đầu để ứng phó. Vì đây là một bệnh lây nên hạn chế tiếp xúc trực tiếp với người bệnh là điều cần thiết. Giữ một đôi bàn tay sạch sẽ khi ăn uống sẽ loại trừ lượng virus khỏi bàn tay và do đó chúng không có cơ hội xâm nhập vào đường hô hấp (vì virus xâm nhập vào đường hô hấp theo đường thở và đường ăn uống).
- Đeo khẩu trang cách ly với mầm bệnh sẽ làm giảm nhiều yếu tố có hại cho đường hô hấp trên như bụi, hơi nóng, hơi lạnh, khí độc.
Khi tiếp xúc với người bệnh nên đeo khẩu trang dự phòng vì virus có thể theo hơi thở, nói chuyện, hắt hơi mà “bắn” sang người đối diện và xâm nhập.
- Tránh nằm điều hoà quá lạnh, tránh làm việc trong môi trường nhiệt độ quá cao.
- Giữ ấm cơ thể khi đi đường, giữ ấm cổ khi ngủ là những biện pháp tuy đơn giản nhưng lại giúp ta phòng tránh khá tốt với những căn bệnh thuộc loại này.

Chế độ chăm sóc Viêm đường hô hấp

1. Chăm sóc bé bị viêm đường hô hấp tại nhà
Bé sốt: thuốc hạ sốt trên thị trường rất đa dạng, nhưng nhìn chung dược chất chính đều là paracetamol, chỉ nên sử dụng khi bé sốt từ 38oC trở lên, nếu sốt dưới nhiệt độ này chỉ cần cho bé mặc quần áo thoáng và uống nhiều nước. Liều dùng của paracetamol từ 10 - 15mg/1kg cân nặng của bé (ví dụ: bé nặng 10kg có thể uống 1 lần từ 100 - 150mg paracetamol khi bị sốt). Nếu dùng thuốc hạ sốt rồi mà bé vẫn sốt cao, nên cho bé tắm nước ấm (làm ướt cả đầu) để hạ nhiệt nhanh, tránh tình trạng co giật do sốt cao.
Bé sổ mũi: nên lau mũi cho bé bằng khăn mềm, khô (tốt nhất là dùng khăn giấy mềm), vì như vậy bé sẽ mau hết sổ mũi, lại không bị đau mũi, đỏ mũi do lau mũi quá nhiều. Giữ ấm cơ thể cũng là một cách giúp bé mau hết sổ mũi, tuy nhiên vì là mùa hè, thời tiết nóng bức, nên không cần phải cho bé mặc quần áo quá dày, sẽ gây cảm giác khó chịu, chỉ cần tránh cho bé nằm ngay luồng quạt máy, luồng gió máy lạnh đang phà ra. Nhiệt độ phòng có thể chấp nhận được là trên hoặc bằng 25oC.
Bé nghẹt mũi: sử dụng dung dịch nước muối sinh lý (NaCl 0,9%) nhỏ mũi để làm loãng mũi cho bé, sau đó hút sạch và ngoáy khô mũi bằng tăm bông khô, sạch.
Bé ho: ho trong viêm đường hô hấp có thể do tình trạng tăng tiết đờm nhớt, tăng xuất tiết, hoặc do co thắt các cơ đường hô hấp. Vì vậy, tùy theo cơ chế gây ho mà bác sĩ quyết định sử dụng thuốc giảm ho loại nào cho bé. Tuy nhiên, dù ho do bất kỳ cơ chế nào thì việc uống nhiều nước và vỗ lưng thường xuyên cho bé cũng là quan trọng, điều này giúp loãng đờm, long đờm, giảm ho cho bé.
Bé nôn: nôn có thể do đặc đờm, cũng có thể do bệnh trở nặng. Vì vậy, nếu đang điều trị bệnh mà thấy bé nôn nhiều, nên cho bé tái khám để xem là do đờm quá đặc gây nôn hay do bệnh đang tiến triển nặng hơn.
Bé biếng ăn: biếng ăn khi bệnh viêm đường hô hấp có thể do nhiều nguyên nhân: ở giai đoạn ủ bệnh, bé có thể đã có tình trạng mệt mỏi biếng ăn. Khi bị bệnh, biếng ăn xảy ra do bé bị đau họng, nghẹt mũi, do sử dụng kháng sinh dài ngày làm rối loạn hệ khuẩn ruột.
2. Các nguyên tắc về chăm sóc dinh dưỡng
* Chuẩn bị cho bé ăn
- Làm sạch mũi bằng cách hút sạch mũi cho bé, sau đó ngoáy khô mũi bằng tăm bông, động tác này giúp mũi thông thoáng, khi ăn bé sẽ ít bị nôn.
- Chuẩn bị thức ăn cho bé: trong lúc bệnh, đa số bé sẽ có cảm giác biếng ăn và khó tiêu hóa hơn so với lúc bình thường, vì vậy, thức ăn cho bé phải được nấu mềm hơn và lỏng hơn một ít so với ngày thường, nhưng vẫn phải bảo đảm đủ 4 nhóm thực phẩm (bột, béo, đạm, rau).
- Chuẩn bị khăn khô mềm để lau cho bé trong khi ăn, không dùng khăn ướt, vì khăn ướt khi chạm vào đầu mũi nhiều lần sẽ gây lạnh và kích thích chảy mũi liên tục.
- Thực phẩm cần ăn kiêng: các món ăn, thức uống lạnh; những thực phẩm khi ăn vào bé bị nổi mề đay (bé dị ứng với thực phẩm này).
* Cho bé ăn
- Cho bé ăn thức ăn ấm tốt hơn thức ăn lạnh (ăn lạnh có thể sẽ làm tình trạng viêm họng tiến triển nhiều hơn).
Nếu bé biếng ăn, nên cho bé ăn lượng thức ăn ít hơn ngày thường, như vậy để bé không bị đói và không bị sụt cân thì phải cho bé ăn thường xuyên hơn (số bữa nhiều hơn) và tận dụng những món bé thích để giúp bé ăn được nhiều.
Trong lúc bệnh, bé rất dễ bị nôn và có cảm giác ăn không ngon, vì vậy, cần đút cho bé chậm hơn so với lúc bình thường. Khi bé không chịu ăn nữa thì ngưng và bổ sung ngay sau bữa ăn những món ăn mà bé thích (sữa chua, các loại bánh, phô mai…).
- Bé nôn: đây là nỗi lo của các bậc cha mẹ khi trẻ bệnh. Nếu bé chỉ nôn 1 - 2 lần mỗi ngày và vẫn vui vẻ, chơi tốt, thì chỉ cần cho bé ăn hoặc uống lại sữa ngay sau khi nôn để bé không bị đói và sụt cân.
- Khi bé có những triệu chứng sau là lúc bé phải đến khám tại bệnh viện: thở nhanh, sốt cao liên tục từ 3 - 5 ngày, nôn nhiều làm bé không thể ăn hoặc uống được gì, có thể bác sĩ sẽ cho bé nhập viện.

(nguồn mobifone)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Lao họng thường là thứ phát sau lao phổi hoặc lao da, gồm nhiều thể như lao kê họng, lao loét bã đậu ở họng, luput họng và lao họng nguyên phát. Các thể bệnh có biểu hiện và tiên tượng nặng nhẹ khác nhau.
  • 28-05-2018
    Trong ngành dinh dưỡng học, thuật ngữ ‘Suy dinh dưỡng protein - năng lượng (severe protein - energy malnutrition - PEM)’ để chỉ các thể lâm sàng điển hình từ suy dinh dưỡng thể phù (Kwashiorkor) đến thể teo đét (Marasmus). Ngày nay, người ta cho rằng
  • 28-05-2018
    Tình trạng nhiễm trùng do vi khuẩn làm cho hệ miễn dịch hoạt hoá các tế bào bạch cầu và các chất hoá học để đề kháng. Trong “cuộc chiến” đó nhiều tế bào vi khuẩn và bạch cầu bị chết tạo thành một chất lỏng đặc còn gọi là mủ. Một số vi khuẩn như vi khuẩn
  • 18-09-2018

    Viêm ruột thừa thường gây đau bắt đầu từ vùng xung quanh rốn và sau đó di chuyển sang vùng bụng dưới bên phải. Đau do viêm ruột thừa sẽ tăng dần trong khoảng thời gian từ 12 đến 18 giờ và cuối cùng trở nên rất nặng nề.

  • 28-05-2018
    Theo tổ chức Y tế thế giới, đẻ non là một cuộc chuyển dạ xảy từ tuần 22 đến trước tuần thứ 37 của thai kỳ tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng.
  • 28-05-2018
    Bệnh sốt xuất huyết do vi rút Hantan thuộc nhóm C trong Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm. Vi rút Hantan còn viết là vi rút Hantaan (genus Hantavirus, thuộc họ Bunyaviridea) có thể gây bệnh cho người nhưng không gây bệnh cho các loài gặm nhấm. Người