Thận đa nang

1. Định nghĩa Bệnh thận đa nang là tình trạng hai thận có nhiều nang to nhỏ không đều ở vùng vỏ và vùng tủy. Nguyên nhân do di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường (tổn thương nhánh ngắn của nhiễm sắc thể thứ 16) nhưng cũng có thể là bẩm sinh. Bệnh thận

Định nghĩa

Bệnh thận đa nang là tình trạng hai thận có nhiều nang to nhỏ không đều ở vùng vỏ và vùng tủy. Nguyên nhân do di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường (tổn thương nhánh ngắn của nhiễm sắc thể thứ 16) nhưng cũng có thể là bẩm sinh.
Bệnh thận đa nang có tỷ lệ nam nữ ngang nhau, biểu hiện lâm sàng thường xuất hiện sau 30 - 40 tuổi. Cả 2 thận gồm rất nhiều nang, các nang kích thước không đều, từ 1 - 2cm đến 4 - 5cm hoặc to hơn nữa. Dịch trong nang thường đồng nhất, đôi khi có dịch máu hoặc dịch đục do bị bội nhiễm.
Bệnh thận đa nang ít khi phối hợp với 1 dị dạng ở các cơ quan khác.
Nhưng có khoảng 30% bệnh nhân có kèm theo gan đa nang, nang ở gan thường ít hơn và kích thước thường nhỏ hơn, ngoài ra còn gặp kết hợp với dị dạng phình mạch não, phình mạch chủ bụng, dị dạng ở tụy, lách…
2. Các thể bệnh
Ngoài thể điển hình như đã mô tả ở trên, bệnh thận đa nang còn có những thể bệnh khác như:
Thể thận đa nang một bên do di truyền gen trội nhiễm sắc thể thường, đây là thể hiếm gặp, khó chẩn đoán, chỉ có sinh thiết thận mới chẩn đoán được thể bệnh này.
Thể phối hợp với gan đa nang, gặp khoảng 30 - 50% trường hợp, biểu hiện gan đa nang thường nhẹ và ít ảnh hưởng đến chức năng gan.
Thể phối hợp với phình động mạch: Nếu có phình mạch não thì tiên lượng nặng và dè dặt vì các biến chứng, tỷ lệ này gặp khoảng 10
20%, phình động mạch chủ bụng cũng có gặp nhưng tỷ lệ không cao.
Thể có tăng hồng cầu do tăng tiết erythropoietin.

Triệu chứng, biểu hiện bệnh thận đa nang

Triệu chứng, biểu hiện bệnh thận đa nang

1. Triệu chứng lâm sàng
Thường không có triệu chứng lâm sàng, bệnh nhân chỉ tình cờ phát hiện khi siêu âm kiểm tra sức khỏe. Một số trường hợp có các triệu chứng lâm sàng nhưng thường là khi thận đa nang có biến chứng:
Đau vùng thận 2 bên, đau âm ỉ, nặng tức.
Đái máu do nhiễm trùng nang hoặc chảy máu thành nang hoặc do sỏi.
Nhiễm trùng đường tiểu ngược dòng gây đái buốt, đái rắt.
Tăng huyết áp thường xuất hiện khi có biến chứng như nhiễm trùng, sỏi thận, suy thận
Có thể sờ thấy thận to, bề mặt lổn nhổn, vùng hố lưng đầy.
2. Triệu chứng cận lâm sàng
Ở giai đoạn sớm của bệnh, các xét nghiệm thường không có gì biến đổi.
Ở giai đoạn muộn hơn, xét nghiệm nước tiểu có thể thấy hồng cầu, bạch cầu, protein niệu.
Khi chưa có suy thận, xét nghiệm máu thấy số lượng hồng cầu, hematocit có thể tăng do tăng tiết erythropoietin của nang, khi có suy thận thì bệnh nhân có thể có thiếu máu nhưng tình trạng không nặng như ở các bệnh nhân suy thận khác, chức năng thận giảm.
Chẩn đoán xác định thận đa nang tương đối dễ, ngày nay siêu âm là phương tiện chẩn đoán hay dùng nhất, tuy nhiên có nhiều trường hợp khó, nhất là ở giai đoạn sớm đôi khi cần phải chụp CT để phát hiện những nang có kích thước nhỏ, không rõ ràng.

Nguyên nhân thận đa nang

Nguyên nhân thận đa nang

Có hai týp bất thường về gen gây nên bệnh thận đa nang.
Týp thứ nhất là do bất thường nhiễm sắc thể trội. Týp này chiếm xấp xỉ 90% tổng số bệnh thận đa nang và nếu một trong số bố hoặc mẹ bị mắc, 50% số trẻ sinh ra sẽ bị bệnh thận đa nang. Bệnh thận đa nang do nguyên nhân này thường xuất hiện ở người lớn, tuổi từ 30 – 40; tuy nhiên, trẻ em cũng có thể bị thận đa nang thuộc týp này.
Týp thứ hai là týp bất thường ở nhiễm sắc thể lặn. Týp này rất ít gặp và thường biểu hiện ngay sau khi trẻ được sinh ra. Một phần nhỏ bệnh có thể xuất hiện muộn hơn ở trẻ lớn và ở tuổi thanh thiếu niên. Bệnh chỉ xuất hiện ở trẻ nếu cả bố và mẹ đều mang gen gây bệnh và sẽ có khoảng 25% trẻ bị mắc bệnh.

Biến chứng bệnh thận đa nang

Biến chứng bệnh thận đa nang

Biến chứng bệnh thận đa nang gồm:
Nhiễm trùng nang: Là một biến chứng nặng, có thể gặp một nang hoặc nhiều nang bị nhiễm trùng. Nguyên nhân có thể là do nhiễm trùng ngược dòng, bệnh nhân có thể sốt cao, đau vùng hông lưng, đái buốt, đái rắt, đái đục. Xét nghiệm máu có bạch cầu tăng, xét nghiệm nước tiểu có bạch niệu; siêu âm thành nang dày, dịch trong nang đục, đôi khi thấy sỏi gây tắc nghẽn.
Tuy nhiên, có những trường hợp không điển hình, bệnh nhân có sốt nhẹ, không có bạch cầu niệu, đau âm ỉ vùng hông lưng, siêu âm có dịch nang đục, dày thành nang thì cũng chẩn đoán là nhiễm trùng nang.
Đái máu và chảy máu thận: Nguyên nhân thuận lợi là do nhiễm trùng và sỏi, chảy máu thành nang, có thể gây đái máu nhẹ, trung bình hoặc nặng; tuy nhiên, cũng có thể không gây đái máu mà chỉ chảy máu khu trú trong nang, đôi khi chảy máu ra ngoài bao thận. Ngoài triệu chứng đái máu, còn có các triệu chứng khác như đau vùng thận, thận to nhanh.
Sỏi thận - tiết niệu: Có thể là sỏi uric hoặc các sỏi khác, sỏi thận - tiết niệu là một trong các nguyên nhân gây nặng bệnh, cần kiểm tra định kỳ để phát hiện sớm và điều trị dự phòng.
Tăng huyết áp: Cần điều trị như tăng huyết áp do các nguyên nhân khác, điều trị tăng huyết áp sớm, kịp thời để hạn chế suy thận.
Suy thận: Có thể gặp suy thận chức năng hoặc suy thận mãn do các nang ngày một to dần gây ảnh hưởng đến chức năng lọc của thận. Ngoài ra, các biến chứng như sỏi nhiễm trùng, tăng huyết áp làm suy thận có thể gặp sau 10-20 năm; tuy nhiên, cũng có những bệnh nhân không bị suy thận.

Chẩn đoán bệnh thận đa nang

Chẩn đoán bệnh thận đa nang

1. Chẩn đoán xác định:
Tính chất gia đình: Trong một nhà có thể có nhiều người cùng bị. Tuy nhiên, biểu hiện lâm sàng của thận đa nang thường xuất hiện ở tuổi thanh niên.
Khối u vùng hạ sườn - thắt lưng: Người bệnh có thể cảm thấy hoặc sờ thấy ở cả 2 bên.
Đau: Cảm giác đau thường âm ỉ nhưng cũng có khi dữ dội, đau lan ra trước bụng và lên ngực.
Tiểu ra máu: Do nang bị vỡ hoặc do có sỏi thận kèm theo.
Tăng huyết áp: Do các động mạch trong thận bị chèn ép.
Viêm đường tiết niệu: Thường là viêm bể thận và thận, rất nặng.
Suy thận ở các mức độ khác nhau.
Có sỏi uric do tổn thương biểu mô ống thận, làm giảm hấp thu axit uric.
Các phương pháp chẩn đoán cận lâm sàng bao gồm chụp thận thuốc (giúp xác định 80% trường hợp thận đa nang), chụp động mạch thận, siêu âm, chụp cắt lớp (giúp phát hiện sỏi, kể cả sỏi không cản quang).
2. Chẩn đoán phân biệt
Ứ nước thận 2 bên: do sỏi hoặc các nguyên nhân gây tắc nghẽn khác.
Thận thiểu sản: có nhiều nang thường chỉ có nang ở 1 bên thận.
Thận suy mạn tính: có nhiều nang nhất là trong trường hợp chạy thận nhân tạo chu kỳ.

Điều trị bệnh thận đa nang

Điều trị bệnh thận đa nang

1. Điều trị triệu chứng đau
Đau vùng thận là triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh nhân thận đa nang. Tùy từng nguyên nhân đau mà có các phương pháp điều trị khác nhau.
Điều trị bằng các thuốc giảm đau thông thường.
Những nang to, đường kính trên 5cm, có thể chỉ định chọc hút nang để giảm triệu chứng đau.
Ngoài ra, các nguyên nhân khác cần được chẩn đoán thêm như: do sỏi, chảy máu trong nang hoặc ngoài bao thận, ung thư hóa…
2. Điều trị đái máu hoặc chảy máu trong thận
Nếu chảy máu nhẹ có thể qua khỏi nhanh thì cho bệnh nhân nằm nghỉ ngơi tại giường, nếu chảy máu số lượng nhiều cần phải cấp cứu kịp thời.
3. Điều trị nhiễm trùng
Nhiễm trùng nang là một biến chứng nghiêm trọng của bệnh thận đa nang. Có thể một hoặc nhiều nang bị nhiễm trùng, phải dùng kháng sinh toàn thân phối hợp, tốt nhất là dựa theo kháng sinh đồ.
Ngoài ra, cần tìm nguyên nhân thuận lợi như sỏi gây tắc nghẽn.
4. Điều trị tăng huyết áp
Cần phát hiện tăng huyết áp sớm và điều trị kịp thời, vì tăng huyết áp sẽ làm sớm suy thận và thúc đẩy suy thận nặng lên.
5. Điều trị sỏi thận, tiết niệu
Sỏi thận gặp khoảng 10-20% trường hợp và là nguyên nhân thuận lợi cho nhiễm trùng nang. Những sỏi trong nhu mô và sỏi ở các nhóm đài thận thường không can thiệp ngoại khoa.
Sỏi niệu quản gây tắc nghẽn, cần chỉ định ngoại khoa.
6. Điều trị suy thận
Điều trị bảo tồn hay thay thế tùy thuộc vào giai đoạn suy thận.

Phòng ngừa bệnh thận đa nang

Phòng ngừa bệnh thận đa nang

Điều quan trọng là phát hiện sớm để có biện pháp kéo dài đời sống bệnh nhân.
Với những gia đình đã có người bị bệnh thận đa nang thì phải khám bệnh, chăm sóc sức khoẻ cho tất cả các thành viên trong gia đình.
Phải khám chuyên khoa thận và cho làm siêu âm, vì siêu âm phát hiện ra nang khi chưa có triệu chứng lâm sàng.
Khi đã phát hiện thận đa nang, thì cần được khám định kỳ nhằm phát hiện kịp thời các biến chứng như: nhiễm khuẩn tiết niệu, sỏi, tăng huyết áp. Chú ý phát hiện nang gan và nang ở các cơ quan khác (lách, tụy, phổi, buồng trứng).

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Đau khớp gối là tình trạng liên quan đến cơn đau xảy ra ở trong và xung quanh khớp gối. Đau khớp gối có thể gây ra bởi những vấn đề ở chính khớp gối hoặc ảnh hưởng từ mô mềm, dây chằng, gân, túi hoạt dịch bao quanh đầu gối.
  • 28-05-2018
    Cứng khớp vai là vai bị cứng, đau và bị giới hạn tầm vận động. Không gian bên trong khớp vai dần nhỏ hơn. Bạn có thể mất vài tháng đến nhiều năm để cải thiện bệnh cứng khớp vai của mình.nCứng khớp vai phát triển theo các giai đoạn:
  • 28-05-2018
    Hệ tiêu hóa bao gồm một tập hợp các cơ quan như dạ dày, ruột non, ruột già, trực tràng... có nhiệm vụ chuyển thức ăn thành dưỡng chất và hấp thu các dưỡng chất này vào máu để cung cấp cho cơ thể. Chúng ta hiếm khi chú ý đến hoạt động của chúng trừ khi
  • 28-05-2018
    Còi xương là bệnh lý chậm phát triển xương, hay gặp ở trẻ dưới 3 tuổi, do thiếu vitamin D làm cho xương bị dị dạng như cong vênh và dễ gãy xương, nứt xương. Là bệnh gây ra do cơ thể bị thiếu vitamin D, dẫn đến thiếu canxi làm ảnh hưởng phát triển hệ
  • 28-05-2018
    Khi mắt của bạn phải tiếp xúc với các tác nhân như phấn hoa, nấm mốc, mắt có thể trở nên đỏ, ngứa và chảy nước. Đây là các triệu chứng của viêm kết mạc dị ứng, là một bệnh viêm tại mắt gây ra do phản ứng dị ứng với một số chất như phấn hoa hay nấm
  • 17-10-2018

    Bệnh Buerger là nguyên nhân gây viêm các mạch máu ở chân và tay, đặc biệt là ở bàn tay và bàn chân. Bệnh này làm thu hẹp và tắc nghẽn các mạch máu nên lưu lượng máu đến bàn tay và bàn chân giảm. Đây là nguyên nhân gây đau và các triệu chứng khác, và cuối cùng có thể dẫn đến tổn thương và gây chết mô (hoại tử) ở tay và/hoặc chân.