Alzheimer

Thuốc và chăm sóc bệnh nhân là những biện pháp chủ yếu. Các thuốc hiện hành không thể làm ngăn chặn hay nghịch đảo quá trình bệnh nền tảng, nhưng chúng có thể làm chậm quá trình diễn tiến bệnh hay làm suy giảm các triệu chứng. Các thuốc được khuyến cáo

Tổng quan bệnh Alzheimer

Tổng quan bệnh Alzheimer

Sa sút trí tuệ (dementia) là mất khả năng về trí lực và giao tiếp xã hội ở mức độ gây khó khăn cho cuộc sống hàng ngày. Sự thoái hóa mô não đang bình thường với nhiều nguyên nhân chưa được biết rõ, gây nên sự suy sụp dần dần trí nhớ và trí tuệ bệnh nhân.

Những ai dễ bị Alzheimer?

Đây là bệnh gây tử vong ở người cao tuổi đứng hàng thứ 4 hiện nay, có khoảng 4 triệu người Mỹ và hơn 8 triệu người trên thế giới mắc bệnh. Những yếu tố sau đây góp phần tăng khả năng mắc bệnh Alzheimer:
Tuổi: là yếu tố nguy cơ lớn nhất, bắt đầu từ tuổi 65 thì mỗi 5 năm lại có gấp đôi số ca bị Alzheimer. Vào tuổi 85 thì có một nửa số người bị bệnh Alzheimer. - Giới tính: phụ nữ dễ bị bệnh hơn nam giới.
Dân tộc: các dân tộc có tần suất mắc bệnh Alzheimer khác nhau. Người da trắng ít mắc bệnh hơn người Mỹ gốc Phi hoặc Tây Ban Nha. Người châu Á cũng ít mắc bệnh hơn nơi khác. Người ta còn cho rằng bệnh chịu ảnh hưởng của yếu tố môi trường, thí dụ người Nhật sống tại Mỹ có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn hẳn so với người Nhật sống tại Nhật. - Cao huyết áp và tăng cholesterol máu: nhiều nghiên cứu cho thấy người có huyết áp tâm thu cao hoặc tăng cholesterol máu sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer.
Hội chứng Down: người bị chứng này sẽ bị Alzheimer khi sống đến 40 tuổi và những bà mẹ sinh con bị Down sẽ có nguy cơ cao bị Alzheimer.

Triệu chứng, biểu hiện bệnh Alzheimer

Triệu chứng, biểu hiện bệnh Alzheimer
Phần lớn bệnh nhân Alzheimer đều có những dấu hiệu bệnh chung như sau:
  • Tính hay quên liên tục và tăng dần. Bệnh Alzheimer khởi đầu bằng một giai đoạn quên, đặc biệt là quên những sự việc mới diễn ra hoặc những việc đơn giản. Nhưng về sau triệu chứng quên cứ tồn tại và tăng dần.
  • Bệnh nhân thường quên nội dung các cuộc nói chuyện, quên các đồ vật, đặt sai vị trí của chúng, thường đặt chúng không đúng theo logic và công dụng. Bệnh nhân thường quên tên bạn bè, rồi cuối cùng quên hẳn cả tên những người thân trong gia đình và tên các đồ vật thường dùng nhất, như cái lược, đồng hồ,…
  • Khó khăn trong suy nghĩ trừu tượng. Bệnh nhân Alzheimer gặp rắc rối với sổ tiết kiệm của họ, nhất là phải nhận ra và hiểu các con số.
  • Khó khăn trong tìm kiếm ngôn từ chính xác để diễn đạt. Thật là một thử thách lớn lao cho các bệnh nhân Alzheimer khi phải tìm kiếm các từ ngữ chính xác để diễn đạt những suy nghĩ của mình và ngay cả chỉ để hiểu kịp các cuộc nói chuyện. Việc đọc và viết cũng gặp khó khăn.
  • Mất định hướng. Bệnh nhân Alzheimer bị mất định hướng về thời gian và không gian. Họ không nhớ rõ ngày giờ, bị lạc trong chính ngôi nhà của mình. Sau cùng bệnh nhân hay đi lang thang ra khỏi nhà.
  • Mất khả năng phân tích và suy xét. Việc giải quyết các vấn đề xảy ra hàng ngày (như làm thế nào để biết thức ăn trên bếp lò bị cháy) trở nên rất khó khăn. Bệnh nhân Alzheimer giờ đây gặp phải trở ngại lớn trong việc thực hiện những công việc đòi hỏi phải có kế hoạch, những quyết định và suy xét.
  • Thực hiện các công việc quen thuộc khó khăn. Những công việc quen thuộc hàng ngày cần phải làm qua các bước tuần tự, ví dụ như việc nấu ăn, đã trở thành một cuộc chiến đấu khó khăn cho người bệnh. Cuối cùng thì bệnh nhân Alzheimer quên cả cách thực hiện những công việc cơ bản nhất, như đánh răng chẳng hạn.
  • Thay đổi nhân cách. Người bệnh có tính khí thay đổi thất thường. Họ hoài nghi hết thảy mọi người, cố chấp và cách ly với xã hội. Lúc còn sớm, triệu chứng này có thể là phản ứng của người bệnh với tâm trạng thất vọng khi họ nhận thấy mình không thể kiểm soát được trí nhớ. Vì vậy mà trầm cảm hay đi đôi với bệnh Alzheimer. Mất ngủ cũng thường xảy ra. Khi bệnh tiến triển nặng, bệnh nhân trở nên khó tính, hay kích động và cư xử không phù hợp.
  • Điển hình, những người thân của bệnh nhân Alzheimer ghi nhận một sự thay đổi dần dần, không phải đột ngột. Đến khi bệnh tiến triển, các triệu chứng ngày càng nặng lên buộc bệnh nhân hoặc người nhà phải tìm đến sự giúp đỡ của thầy thuốc. Nhiều bệnh nhân Alzheimer cũng nhận ra rằng trí nhớ của mình có vấn đề, có thể sẽ rất nặng nề.
  • Quá trình bệnh lý xảy ra nhanh hay chậm tùy thuộc rất nhiều vào từng cá thể. Từ triệu chứng quên đơn giản đến lúc sa sút trí tuệ nặng nề có thể kéo dài 5 năm, nhưng cũng có người đến 10 năm hoặc lâu hơn.
  • Bệnh Alzheimer thường diễn tiến từ nhẹ đến vừa, đến nặng. Bệnh nhân còn ở giai đoạn nhẹ thường có thể sống một mình được và có thể xử lý công việc khá tốt. Ở giai đoạn vừa, người bệnh sẽ gặp khó khăn lớn nếu không có người giúp đỡ; còn ở giai đoạn cuối, thường không thể tự chăm sóc bản thân họ được.
  • Các nhà nghiên cứu đã gọi giai đoạn mất trí nhớ là giai đoạn suy giảm nhận thức nhẹ, hay giai đoạn tiền Alzheimer. Giai đoạn này là thời khoảng giao nhau giữa những triệu chứng suy giảm trí nhớ bình thường do tuổi già và những triệu chứng nhẹ đầu tiên của Alzheimer.
  • Bệnh nhân suy giảm nhận thức nhẹ, mất trí nhớ vượt quá ngưỡng bình thường ở tuổi của họ, nhưng chưa phải là sa sút trí tuệ của Alzheimer. Việc phân loại dạng mất trí nhớ này giúp các thầy thuốc chẩn đoán chính xác hơn để hỗ trợ hữu hiệu cho người bệnh. Nó giúp cảnh báo cho bệnh nhân nguy cơ cao phát triển bệnh.

Nguyên nhân gây bệnh Alzheimer

  • Yếu tố sinh học của não
    • Nhờ tiến bộ trong lĩnh vực hình ảnh học, người ta đã phát hiện người bệnh bị mất tế bào thần kinh và giảm thể tích những vùng não chi phối trí nhớ, vùng đảm nhận tâm thần kinh.
    • Dưới kính hiển vi điện tử, khi xem xét mô não về tế bào học thấy có tổn thương về mặt sinh học, đó là sự thoái hóa của các sợi dây thần kinh, hoặc bị tổn thương chỉ còn là những ống nhỏ ngăn cản vận chuyển chất dinh dưỡng nuôi tế bào thần kinh. Vấn đề này liên quan đến một protein có tên là TAU. Kế đến là sự xuất hiện của một protein gọi là beta amyloid, chúng không hòa tan nên tích tụ thành những mảng keo.
    • Ở bệnh nhân Alzheimer, những chất này nằm xung quanh các tế bào thần kinh chết, một loại protein tiền chất amyloid (amyloid precursor protein, viết tắt là APP) cũng tồn tại ở đây giúp cho hoạt động hủy hoại tế bào thần kinh của beta amyloid. Sự có mặt quá nhiều của beta amyloid sẽ làm giảm chất trung gian dẫn truyền thần kinh acetylcholine cần thiết cho trí nhớ.
    • Beta amyloid cũng ngăn chặn sự vận chuyển ion kali, natri, canxi qua màng tế bào (giúp cho quá trình truyền tín hiệu thần kinh). Ngoài ra còn có vai trò của một số chất protein khác như ERAB (endoplasmic-reticulum associated binding protein), mảng AMY (giống beta amyloid), Par-4 (prostate apoptosis response - 4).
  • Sự ôxy hóa và đáp ứng viêm
    • Nhiều nghiên cứu đã cố gắng đi sâu tìm hiểu tại sao beta amyloid lại gây tổn thương não trong bệnh Alzheimer và đã phát hiện ra sự xuất hiện của các gốc ôxy tự do. Sự xuất hiện nhiều chất này sẽ làm tổn thương tế bào thần kinh.
    • Thật ra, sự xuất hiện các chất ôxy hóa là sản phẩm của hầu hết những phản ứng hóa học trong cơ thể con người nhưng với một lượng dư thừa sẽ gây hại (chất ôxy hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong bệnh sinh của bệnh mạch vành và ung thư). Ngoài ra chất ôxy hóa cũng liên quan với đáp ứng miễn dịch, đó là phản ứng viêm (men cyclooxygenase và prostaglandin làm tổn thương tế bào thần kinh).
  • Yếu tố gen
    • Các gen đóng vai trò gây khởi phát muộn Alzheimer là ApoE2, ApoE3, ApoE4. Còn những đột biến gen PS1, PS2 hoặc gen kiểm soát APP sẽ làm cho bệnh khởi phát sớm hơn.
    • Giảm hoóc-môn sinh dục nữ.
    • Giảm estrogen sau mãn kinh có liên quan rõ rệt đến giảm trí nhớ và sa sút tâm thần.
  • Yếu tố môi trường
    • Nhiễm trùng, nhiễm kim loại (người ta phát hiện kẽm, đồng tích tụ trong mô não người bị Alzheimer), môi trường điện từ trường, nhiễm độc...
    • Một số yếu tố khác đã được xác định có liên quan đến bệnh là homocystein, sự thiếu hụt vitamin nhóm B, trầm cảm, chấn thương đầu, nhóm người có điều kiện kinh tế kém và học vấn thấp...

Biến chứng bệnh Alzheimer

Biến chứng Alzheimer

  • Ở Alzheimer giai đoạn nặng, bệnh nhân mất tất cả các khả năng tự chăm sóc cho bản thân. Họ ăn uống khó khăn, không kìm chế hoặc không thể kiểm soát bước đi và thường đi lang thang khỏi nhà.
  • Mất các khả năng kiểm soát này làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như:
    • Viêm phổi: Khó nuốt thức ăn và các dịch uống làm bệnh nhân dễ hít các chất này vào phổi, gây ra viêm phổi hít.
    • Nhiễm trùng: Bệnh nhân thường đi tiểu không tự chủ nên phải đặt thông tiểu, làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đường niệu, nếu không được điều trị sẽ càng nặng hơn, có thể đe dọa mạng sống bệnh nhân.
    • Té ngã và các biến chứng: Người bệnh thường bị mất định hướng và dễ dàng bị vấp ngã, làm tăng nguy cơ gãy xương. Hơn nữa, té ngã thường làm chấn thương đầu nặng, như xuất huyết nội sọ, bệnh nhân phải chịu phẫu thuật nằm viện dài ngày, càng làm tăng nguy cơ huyết khối trong não, tim, phổi, loét da do tư thế,…tất cả đều đe dọa mạng sống người bệnh.

Chẩn đoán bệnh Alzheimer

Chẩn đoán bệnh Alzheimer

Có thể chẩn đoán bệnh bằng cách loại trừ tất cả các nguyên nhân có thể gây mất trí nhớ. Ví dụ, cơn đột quỵ nhỏ, tiềm ẩn có thể làm gián đoạn tạm thời dòng máu lên não, gây ra sa sút trí tuệ. Bệnh Parkinson – thoái hóa thần kinh, hoặc trầm cảm, cũng có thể gây giảm trí nhớ.Ngoài ra, người già thường phải sử dụng nhiều thuốc điều trị khác có thể ảnh hưởng đến trí nhớ và khả năng suy nghĩ.
Để giúp ích cho chẩn đoán Alzheimer từ nhiều nguyên nhân gây mất trí nhớ, người ta dựa vào các yếu tố sau:
  • Tiền sử bệnh. Thầy thuốc cần hỏi kỹ về tình trạng sức khỏe chung và các vấn đề bệnh lý đã xảy ra trước đây, nhất là những vấn đề xảy ra trong các hoạt động hàng ngày của bệnh nhân. Cần thu thập thêm thông tin từ người thân và bạn bè của người bệnh.
  • Các xét nghiệm thường quy. Xét nghiệm máu, nước tiểu giúp bác sĩ có thể loại trừ những nguyên nhân gây sa sút trí tuệ khác.
  • Các test tâm thần. Các test này dùng để đánh giá trí nhớ, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng chú ý, kỹ năng đếm và ngôn ngữ.Các test này giúp cho bác sĩ lượng giá chính xác khả năng nhận thức của bệnh nhân. Ví dụ, bác sĩ có thể kiểm tra trí nhớ gần và trí nhớ dài hạn bằng cách hỏi: Hôm nay là ngày gì? Chiến tranh Thế giới thứ II xảy ra năm nào? Các test nhắc lại cũng là một ví dụ. Bác sĩ liệt kê tên những người thân trong gia đình bệnh nhân, bệnh nhân nhắc lại ngay rồi lặp lại sau 5 phút.
  • Kiểm tra não bộ bằng chụp cắt lớp điện toán CT scan, chụp cộng hưởng từ hạt nhân MRI, chụp phát xạ positron PET, dựa vào đó có thể định vị được những bất thường có thể thấy được.
  • Nhờ vào những phương pháp này, các bác sĩ có thể chẩn đoán chính xác đến 90% các trường hợp Alzheimer. Chẩn đoán chính xác 100% chỉ có thể qua phương pháp phẫu tích não bộ tử thi để tìm các mảng và đám rối – điều không thể thực hiện khi bệnh nhân còn sống.
  • Những xét nghiệm về gen và di truyền học vẫn còn trong vòng thử nghiệm. Thử nghiệm máu chỉ cho biết rằng một người có mang gen bất thường có thể có liên quan tới bệnh mà không thể cho biết người nào mang các gen đó sẽ bị tiến triển thành bệnh.
Điều trị bệnh bằng thuốc
  • Các chất cholinergic: Rivastigmine (exelon) là một chất ức chế men acetylcholinesterase, thuốc có tác dụng chọn lọc trên enzym đích ở hồi hải mã và vỏ não, những vùng này bị ảnh hưởng nhiều nhất trong bệnh Alzheimer. Thuốc exelon nói chung dung nạp tốt, nhưng vẫn có vài tác dụng phụ như buồn nôn, gây chậm nhịp tim.
  • Ngoài ra, còn sử dụng các thuốc như nivalin, gliatylin cũng cho kết quả khả quan. Các thuốc trên chỉ có tác dụng làm chậm sự tiến triển của bệnh chứ không điều trị khỏi bệnh.
  • Nếu bệnh nhân có các triệu chứng trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác đi kèm thì cần điều trị bằng các thuốc chống trầm cảm và thuốc an thần. Việc điều trị này phải do bác sỹ chuyên khoa tâm thần đảm nhiệm. Liều thuốc chỉ dùng bằng 1/3 đến 1/2 liều người lớn thông thường. Khi bệnh nhân có kích động, trầm cảm, hoang tưởng, ảo giác nặng thì phải nhập viện điều trị.

Điều trị bệnh Alzheimer

Thuốc và chăm sóc bệnh nhân là những biện pháp chủ yếu.
Các thuốc hiện hành không thể làm ngăn chặn hay nghịch đảo quá trình bệnh nền tảng, nhưng chúng có thể làm chậm quá trình diễn tiến bệnh hay làm suy giảm các triệu chứng. Các thuốc được khuyến cáo dùng trong bệnh Alzheimer gồm:
  • Tacrine (Cognex). Tacrine có thể cải thiện khả năng trí tuệ khoảng 30% bệnh nhân Alzheimer mức độ từ nhẹ đến trung bình bằng cách làm chậm sự suy giảm chất dẫn truyền thần kinh trong não. Thuốc có tác dụng phụ gồm: buồn nôn, tiêu chảy, mệt mỏi, thường chỉ nhẹ và ngắn hạn.
  • Rivastigamine (Exelon). Cũng giống như tacrine và donepezil, rivastigamine ngăn chặn sự giảm sút các chất dẫn truyền thần kinh, giảm các triệu chứng.
Các thầy thuốc cũng thường sử dụng hỗ trợ các thuốc nhằm cải thiện triệu chứng đi kèm, như mất ngủ, lơ đãng mất tập trung, lo âu, kích động và trầm cảm.
Việc điều trị bệnh Alzheimer hiện nay vẫn còn trong giai đoạn non trẻ. Nhưng các nhà nghiên cứu vẫn lạc quan tin tưởng rằng trong một tương lai không xa, nhiều thuốc mới ra đời, hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn trong triệt thoái các triệu chứng của bệnh Alzheimer. Các chuyên gia hiện đang khảo sát các triệu chứng giống bệnh Alzheimer trên chuột thí nghiệm nhằm thúc đẩy việc chế tạo các loại thuốc có thể trì hoãn hoặc làm kéo dài quá trình tiến triển bệnh.

Phòng ngừa bệnh Alzheimer

Phòng ngừa bệnh Alzheimer

Sự suy giảm và rối loạn trí nhớ xuất hiện từ độ tuổi trung niên là biểu hiện thường thấy nhất của bệnh . Hãy thực hiện những bí quyết sau từ lúc trẻ để giảm bệnh hữu hiệu khi về già:
  • Uống nước ép rau quả
    • Các nghiên cứu xuất bản trên tạp chí Medicine (Mỹ) đã chỉ ra rằng những người uống từ 3 khẩu phần nước ép rau quả mỗi tuần trở lên sẽ giảm 76% nguy cơ phát triển các triệu chứng của Alzheimer so với những người uống nước rau quả ép chưa tới 1 khẩu phần mỗi tuần.
    • Những người có lượng đường máu cao không thể uống nước ép quả thì nên chuyển sang các loại nước rau ép.
    • Với những người không thích uống nước ép, biện pháp hiệu quả là ăn đủ lượng rau cần thiết.
  • Đảm bảo lượng axít béo omega-3
    • Nghiên cứu xuất bản trên tạp chí Neuroscience đã chỉ ra rằng chế độ ăn giàu axít béo omega-3 đặc biệt là DHA có thể giảm đáng kể tiến trình của bệnh, đã được thí nghiệm ở chuột.
    • Các nhà khoa học trên toàn thế giới đã nhất trí rằng việc sử dụng thực phẩm giàu axít béo omega-3 rất cần thiết cho việc phát triển và duy trì hệ thần kinh khoẻ mạnh để đầy lùi Alzheimer.
    • Một số thực phẩm giàu axít béo omega-3 như: dầu gan cá, quả óc chó tươi ngâm trong nước vài giờ, rong tảo biển, rau sam, hạt lanh, cá hồi...
  • Duy trì cân nặng hợp lý với chiều cao
    • Theo các nghiên cứu được trình bày trong cuộc họp thường niên lần thứ 58 nghiên cứu về thần kinh ở Mỹ vào tháng 4/2006, thì những người thừa cân ở độ tuổi từ 40 trở lên có nguy cơ bị bệnh cao hơn so với những người có cân nặng vừa phải ở cùng độ tuổi.
  • Tích cực hoạt động
    • Các tế bào não cũng giống như các tế bào vùng cơ nên chúng cần được tập luyện đều đặn để giữ sự khoẻ mạnh và săn chắc.
    • Nếu công việc hàng ngày của bạn ít vận động, tập thể dục thường xuyên là biện pháp giúp giảm đáng kể nguy cơ mắc bệnh và tăng cường sức khoẻ toàn diện.
alzheimer
  • Tránh xa nhôm
    • Theo Viện Sức khoẻ Quốc tế thì thành phần quan trọng trong hợp chất nhôm có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ thần kinh gây bệnh.
    • Những nguồn phổ biến nhôm nên tránh như:
      •  Pho mát và bánh mỳ ngô đã qua chế biến;
      •  Một số loại thuốc như antacid và aspirin buffer;
      •  Các loại nồi xoong bằng nhôm, không nên nấu rau xanh và cà chua trong các đồ nhôm;
      •  Nhôm có trong chất chống chảy nhiều mồ hôi.
  • Tránh xa các nguồn có chứa thuỷ ngân
    • Các nghiên cứu khoa học vẫn chưa biết chính xác sự liên quan giữa thuỷ ngân và nguy cơ mắc Alzheimer. Tuy nhiên, nghiên cứu năm 2001 đăng tải trên tạp chí NeuroReport đã chỉ ra rằng việc xông hít hơi thuỷ ngân có thể gây ảnh hưởng lớn đến hệ thần kinh, gây ra những tổn thương giống biểu hiện ở những người mắc bệnh.
    • Những nguồn thuỷ ngân phổ biến nên tránh:
      •  Hỗn hợp hàn răng;
      •  Hải sản, đặc biệt là những loại cá lớn;
      •  Bóng đèn compact, huỳnh quang bị vỡ.

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Hen phế quản (bệnh hen hay hen suyễn) là tình trạng đường dẫn khí bị hẹp và phù nề cũng như tăng tiết đàm nhầy. Điều này làm việc thở khó khăn và dễ gây ho, khò khè và thở hụt hơi.
  • 28-05-2018
    Chèn ép tim là tình trạng tim bị đè nén do có quá nhiều máu hoặc chất dịch tích tụ giữa cơ tim và màng ngoài tim từ đó tạo áp lực lên tim và ảnh hưởng đến hoạt động bơm máu của tim. Trong trường hợp không bơm đủ máu có thể dẫn đến suy tim.
  • 28-05-2018
    Xuất tinh là sự phóng thích tinh dịch từ dương vật sau khi đạt cực khoái tình dục. Khi một người đàn ông được kích thích tình dục, não sẽ gửi tín hiệu đến vùng sinh dục thông qua các dây thần kinh trong tủy sống để làm các cơ vùng chậu co thắt.
  • 28-05-2018
    Là bệnh da thông thường, biểu hiện tình trạng viêm da mạn tính với vảy da bóng mỡ trên nền da đỏ xuất hiện ở vùng da có nhiều tuyến bã hoạt động như da đầu, mặt, vùng trước xương ức, vùng liên bả vai… Bệnh có thể gặp ở mọi lứa tuổi. Bệnh diễn biến dai
  • 28-05-2018
    Xơ vữa động mạch (atherosclerosis) là bệnh làm động mạch của bạn trở nên cứng và hẹp đi. Thậm chí, động mạch có thể bị tắc hoàn toàn. Động mạch là những mạch máu mang máu từ tim đến những phần còn lại của cơ thể.
  • 18-09-2018

    Bạch hầu là một bệnh truyền nhiễm – cấp tính do vi khuẩn bạch hầu có tên khoa học Corynebacterium diphtheriae gây nên. Bệnh có thể lây truyền qua đường hô hấp do tiếp xúc trực tiếp với người bệnh.. Vi khuẩn Bạch hầu thường xâm nhiễm vào mũi và vùng hầu