Viêm gan tự miễn

Viêm gan tự miễn là một nguyên nhân hiếm gặp của viêm gan kéo dài (viêm gan mạn). Nguyên nhân chưa được biết. Nếu không chữa trị, tình trạng viêm gây ra sẹo ở gan (xơ gan). Tuy nhiên, với việc điều trị, tiên lượng cho những người mắc bệnh này rất tốt.

Viêm gan tự miễn dịch là gì?

Viêm gan là tình trạng viêm của gan. Có nhiều nguyên nhân gây viêm gan. Ví dụ, uống nhiều rượu và nhiễm các loại virus khác nhau là những nguyên nhân phổ biến gây viêm gan.
Viêm gan tự miễn là một nguyên nhân hiếm gặp của viêm gan mạn tính. Viêm gan mạn tính là bệnh gan có tổn thương hoại tử và viêm diễn ra trong thời gian trên 6 tháng. Tình trạng viêm mạn tính dần dần gây tổn thương các tế bào gan, có thể dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng.

Các triệu chứng của viêm gan tự miễn?

Trong nhiều trường hợp, các triệu chứng xuất hiện từ từ trong vài tuần hoặc vài tháng. Vào giai đoạn khởi đầu của bệnh, nhiều người không có triệu chứng. Các triệu chứng ban đầu thường gặp nhất bao gồm:
Cảm thấy mệt mỏi hơn bình thường.
Cảm thấy không khỏe.
Đau khớp và cơ, thường nặng hơn vào buổi sáng.
Cảm thấy khó chịu (buồn nôn).
Vàng da có thể xuất hiện khi viêm gan trở nên tồi tệ hơn. Trong vàng da, da bạn trở nên vàng. Bạn có xu hướng nhận thấy nó đầu tiên khi tròng trắng của mắt trở nên vàng. Điều này là do sự tích tụ của bilirubin được tạo ra ở gan và vào máu trong một số tình trạng của gan. (Với vàng da do viêm gan, nước tiểu trở nên đậm màu, phân có thể trở nên nhạt màu và có xu hướng bị ngứa.)
Nếu không điều trị, trong thời gian viêm nhiễm kéo dài gây tổn thương gan và có thể dẫn đến xơ gan. Xơ gan giống như một vết sẹo trong gan, mà có thể gây ra những vấn đề nghiêm trọng và suy gan khi nó trầm trọng.
Trong một số trường hợp, các triệu chứng diễn tiến nhanh chóng trong một vài ngày với một viêm gan cấp tính. (Cấp tính có nghĩa là khởi phát đột ngột hoặc trong thời gian ngắn). Điều này có thể gây ra sự khởi phát khá đột ngột:
Sốt.
Đau bụng.
Vàng da.
Cảm thấy mệt mỏi.
Nôn mửa.
Cảm thấy không khỏe.
Trong một số trường hợp, viêm gan cấp tính giảm dần và diễn tiến thành loại phổ biến hơn của viêm gan mạn. Trong một số trường hợp, viêm gan cấp tính trở nên trầm trọng và nhanh chóng dẫn đến suy gan.
Nếu không được điều trị, thời gian cần từ sự khởi phát của bệnh cho đến xơ gan nặng diễn tiến khác nhau từ người này sang người khác. Tuy nhiên, với việc điều trị, tình trạng viêm thường có thể được kiểm soát và tiên lượng tốt.

Nguyên nhân gây viêm gan tự miễn?

Nguyên nhân không rõ ràng. Nó được coi như là một bệnh lý tự miễn. Hệ thống miễn dịch thường bảo vệ chúng ta chống lại nhiễm trùng từ vi khuẩn, virus và các mầm bệnh khác. Ở những người mắc bệnh tự miễn hệ thống miễn dịch tấn công một hay nhiều phần của cơ thể như là một yếu tố ngoại lai. Điều này gây ra viêm và có thể phá hủy một hay nhiều cơ quan bị ảnh hưởng của cơ thể.
Hệ thống miễn dịch bao gồm bạch cầu và các protein đặc biệt (kháng thể) chúng tấn công và tiêu diệt các vi trùng và nguyên liệu ngoại lai. Có hàng loạt các bệnh tự miễn khác nhau. Ví dụ, viêm khớp dạng thấp, bệnh nhược cơ, một số dạng của bệnh tuyến giáp, và viêm gan tự miễn. Các triệu chứng của từng bệnh phụ thuộc vào một hay nhiều cơ quan của cơ thể bị tấn công bởi hệ thống miễn dịch. Trong một số bệnh tự miễn là do các kháng thể gây hại. Trong viêm gan tự miễn, đó là do bạch cầu, chủ yếu liên quan đến tế bào lympho. Các tế bào lympho tấn công tế bào gan gây viêm và tổn thương.
Người ta không biết lý do tại sao xảy ra viêm gan tự miễn hay các bệnh tự miễn khác. Một số yếu tố có thể kích hoạt hệ thống miễn dịch tấn công các mô của cơ thể. Có nhiều giả thuyết khác nhau để giải thích vấn đề. Ví dụ, một virus, một chất hóa học hoặc một số yếu tố khác có thể gây ra bệnh. Ngoài ra còn do yếu tố di truyền khiến một số người dễ bị mắc bệnh tự miễn. (Đó là, bạn phải có đặc điểm di truyền nhạy cảm với một kích thích để biểu hiện ra bệnh này.)

Ai mắc viêm gan tự miễn?

Viêm gan tự miễn là bệnh lý hiếm gặp. Nó ảnh hưởng đến khoảng 1 trong 10.000 người ở Anh. Khoảng 7 trong 10 trường hợp là phụ nữ. Nó thường gặp ở phụ nữ trong độ tuổi khoảng 45, nhưng nó có thể ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi (kể cả trẻ em và người già).

Làm thế nào để chẩn đoán viêm gan tự miễn?

Nhiều người bị viêm gan tự miễn không có triệu chứng, hoặc chỉ có triệu chứng mơ hồ, trong một thời gian ở giai đoạn đầu của bệnh. Vì vậy, việc chẩn đoán thường được thực hiện khi bạn đi kiểm tra cho một bệnh lý không liên quan. Khi các triệu chứng cho thấy bạn bị viêm gan, bác sĩ sẽ thường chỉ định các xét nghiệm để xác định viêm gan và để tìm ra nguyên nhân của bệnh. Các xét nghiệm thường bao gồm:
Xét nghiệm máu gọi là xét nghiệm chức năng gan. Đo lường sự hoạt động của các chất hóa học (enzyme) và các chất khác được tạo ra ở gan. Điều này đưa ra một hướng dẫn chung về việc liệu gan có bị viêm không, và nó đang làm việc như thế nào. Những xét nghiệm này có thể xác định rằng bạn bị viêm gan nhưng thường không chỉ ra nguyên nhân gây viêm gan.
Siêu âm gan có thể được thực hiện.
Xét nghiệm máu khác có thể đo lường tự kháng thể khác nhau xuất hiện trong các bệnh tự miễn khác nhau. Ví dụ, kháng thể kháng nhân (ANA) hoặc các kháng thể kháng cơ trơn (SMA). Một số các tự kháng thể tăng lên trong viêm gan tự miễn và chỉ ra rằng điều này có thể là nguyên nhân của viêm gan.
Một mẫu nhỏ (sinh thiết) của gan có thể được lấy để quan sát dưới kính hiển vi. Điều này có thể cho thấy tình trạng viêm và mức độ xơ gan. Các loại tế bào tham gia trong quá trình viêm thường giúp để xác định chẩn đoán viêm gan tự miễn, và để loại trừ các nguyên nhân khác của viêm gan.
Các xét nghiệm khác cũng có thể được thực hiện để loại trừ các rối loạn ở gan khác như viêm gan siêu vi.

Điều trị viêm gan tự miễn dịch?

Việc điều trị gần như luôn luôn cần thiết. Điều trị sớm có thể cải thiện triệu chứng, giảm nguy cơ biến chứng, và cũng cải thiện rất nhiều tiên lượng của bạn. Điều trị với mục đích làm giảm viêm và ức chế hệ thống miễn dịch bằng các thuốc ức chế miễn dịch:
Thuốc steroid (thường là prednisolone) là điều trị thông thường đầu tiên. Steroid tốt trong việc giảm viêm. Một liều cao thường là cần thiết ở giai đoạn đầu. Sau đó giảm liều dần trong một vài tuần. Mục đích là để tìm ra liều thấp nhất cần để kiểm soát tình trạng viêm. Liều cần thiết thay đổi từ người này sang người khác.
Azathioprine là một loại thuốc ức chế miễn dịch hoạt động theo cơ chế khác với steroid. Nó thường được sử dụng kết hợp với steroid. Một liều steroid cộng với azathioprine có xu hướng có hiệu quả tốt hơn so với sử dụng hoặc steroid hoặc azathioprine đơn độc. Ngoài ra, liều steroid cần thiết thường ít hơn nếu bạn sử dụng đồng thời azathioprine. Điều này có nghĩa rằng tác dụng phụ bất kì từ steroid có thể ít nghiêm trọng hơn.
Điều trị này có hiệu quả tốt trong hầu hết các trường hợp. Thông thường, tình trạng viêm giảm dần và triệu chứng cải thiện trong vòng một vài tháng sau khi bắt đầu điều trị. Tuy nhiên, điều này có thể kéo dài một năm hoặc hơn để căn bệnh này hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát. Azathioprine thường được sử dụng ít nhất trong vòng ba năm.
Tác dụng phụ của điều trị có thể gây rắc rối trong một số trường hợp. Liều điều trị được giữ ở mức thấp nhất có thể để giữ điều kiện dưới sự kiểm soát với mức tác dụng phụ tối thiểu. Nếu bạn không thể chịu đựng được azathioprine và / hoặc steroid thì sau đó việc điều trị thay thế có thể được đưa ra. Điều này có thể bao gồm các loại thuốc khác được gọi là ciclosporin hoặc tacrolimus.
Tác dụng phụ của steroid có thể xảy ra. Bao gồm loãng xương, tăng cân và tăng áp lực trong mắt (tăng nhãn áp). Bác sĩ có thể sẽ khuyên bạn bổ sung vitamin D và canxi trong khi bạn đang sử dụng thuốc steroid. Những hoạt động giúp tăng độ vững chắc xương và giảm nguy cơ tiến triển bệnh loãng xương trong tương lai. Có khả năng là bạn sẽ được tư vấn để thực hiện một đo đậm độ xương (DEXA scan) trước khi bắt đầu sử dụng steroid và sau đó được lặp lại một cách đều đặn. Điều này được thực hiện nhằm đánh giá độ đặc xương của bạn.
Một khi tình trạng đã được giải quyết hoàn toàn, bác sĩ có thể tư vấn cho một thử nghiệm ngừng điều trị. Sinh thiết gan thường được thực hiện ở phần cuối của quá trình điều trị, để đảm bảo rằng viêm gan đã được giải quyết hoàn toàn. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 1 trong 5 trường hợp có thể duy trì ngừng điều trị trong một khoảng thời gian dài. Điều này là do viêm gan thường tái lại (tái phát), có nghĩa là bạn sẽ phải uống thuốc sau đó. Trong nhiều trường hợp, việc điều trị duy trì lâu dài là cần thiết. Điều này có nghĩa phần lớn các bệnh nhân viêm gan tự miễn sẽ cần phải dùng đến liều thấp điều trị ức chế miễn dịch trong khoảng thời gian dài, hoặc thậm chí vô thời hạn.
Đối với một số người, ghép gan có thể là một lựa chọn – ví dụ:
Trong một số ít những người không đáp ứng với điều trị bằng các loại thuốc nêu trên; hoặc là
Ở những người được chẩn đoán ở giai đoạn cuối của bệnh xơ gan hoặc suy gan.
Tiên lượng xa sau khi ghép gan là tốt.
Khuyến cáo rằng bạn nên được chích ngừa viêm gan A và viêm gan B. Bạn cũng nên chủng ngừa cúm hàng năm .

Chế độ dinh dưỡng và rượu

Hầu hết những người bị viêm gan tự miễn sẽ được khuyên nên có một chế độ dinh dưỡng khỏe mạnh. Lý tưởng nhất, bất cứ ai bị viêm gan không nên uống rượu, hoặc chỉ một lượng rất nhỏ. Nếu bạn đã bị viêm gan, rượu có thể làm tăng nguy cơ và tốc độ tiến triển xơ gan.

Biên dịch - Hiệu đính: Nguồn: Y học cộng đồng

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 17-10-2018

    Dị dạng Chiari (Chiari Malformation) được xem là một tật bẩm sinh, mặc dù các bệnh mắc phải của tình trạng này đã được chẩn đoán. Giáo sư giải phẫu bệnh người Đức, Hans Chiari, đã đầu tiên mô tả những bất thường của não bộ ở vị trí chẩm cổ vào những

  • 17-10-2018

    Nữ hóa tuyến vú là sự phì đại mô vú ở nam giới. Dấu hiệu ban đầu là một khối mô đàn hồi hoặc khá rắn dưới hai đầu núm vú và sau đó lan rộng ra ngoài vùng vú. Phần mô phình to không phải là mô mỡ mà là mô các tuyến. 50% số trường hợp, sự phình to xảy

  • 28-05-2018
    Thoát vị đùi là túi phình gồm ruột hoặc mô mỡ bị đẩy qua vùng cơ yếu ở đùi. Bệnh xảy ra ở gần đùi, thường là bên phải. Thoát vị đùi đôi khi gây ra một chỗ sưng u lên ở phần trên bên trong đùi hoặc bẹn. Các chỗ sưng u này thường có thể biến mất khi bạn
  • 28-05-2018
    Ung thư đại trực tràng bắt nguồn từ các mô đại tràng (phần dài nhất của ruột già) hoặc trực tràng (vài cm cuối cùng của ruột già trước hậu môn). Hầu hết các ung thư đại trực tràng là các khối u ác tính bắt nguồn từ mô tuyến (ung thư bắt đầu trong các
  • 28-05-2018
    Tưa/đẹn miệng – hay còn gọi là Candida miệng – là một tình trạng trong đó nấm Candida albicans phát triển ở lớp niêm mạc miệng. Ở điều kiện bình thường, Candida cũng tồn tại trong miệng bạn với các vi sinh vật khác. Nhưng đôi khi, chúng quá phát và gây
  • 28-05-2018
    Nhau tiền đạo, hay rau tiền đạo, xảy ra khi nhau thai nhằm ở vị trí thấp nhất của tử cung dẫn đến bánh nhau che một phần hoặc toàn bộ cổ tử cung. Đây là nguyên nhân chính gây xuất huyết trong khi mang thai. Tùy vào vị trí bám của nhau thai mà có các