Thận do đái tháo đường

Hai thận nằm ở hai bên vùng hông, phía trước là các quai ruột và phía sau là cột sống. Mỗi thận có kích thước bằng một quả cam lớn, nhưng có hình hạt đậu.

Định nghĩa bệnh thận do đái tháo đường

Bệnh thận đái tháo đường là một biến chứng xảy ra ở một số người bị đái tháo đường. Bệnh lý này gây tổn thương chức năng lọc của cầu thận, làm thất thoát một lượng protein lớn hơn mức cho phép từ máu vào nước tiểu. Thành phần chính của lượng protein này là albumin.
Trong trường hợp bình thường, chỉ một lượng nhỏ albumin được tìm thấy trong nước tiểu. Sự gia tăng nồng độ albumin trong nước tiểu là dấu hiệu điển hình đầu tiên của bệnh thận do đái tháo đường.
Bệnh thận do đái tháo đường được chia thành hai loại chính, phụ thuộc vào lượng albumin bị mất qua thận:
Albumin niệu vi lượng (Microalbuminuria). Tình trạng mà lượng albumin mất qua nước tiểu từ 30-300 mg/ngày.
Protein niệu (Proteinuria). Tình trạng mà lượng albumin mất qua nước tiểu là hơn 300 mg/ngày. Đôi khi nó còn được gọi là albumin niệu đại lượng.

Diễn tiến của bệnh thận do đái tháo đường

Ở bệnh nhân đái tháo đường, mức đường huyết tăng cao có thể làm tăng nồng độ của một số chất trong thận. Những chất này có xu hướng làm “thất thoát” nhiều albumin vào nước tiểu. Ngoài ra, nồng độ đường cao có thể làm một số protein trong cầu thận dễ liên kết với nhau. Sự liên kết này có thể kích hoạt một quá trình tạo sẹo khu trú, gọi là sự xơ hóa cầu thận. Quá trình này thường xảy ra sau nhiều năm và chỉ được ghi nhận ở một số người bệnh.
Khi bệnh càng tiến triển, mô thận bình thường bị thay thế bởi mô xơ làm giảm hoặc mất chức năng lọc của thận. Dần dần, bệnh tiến triển tới suy thận giai đoạn cuối.
Albumin niệu vi lượng (lượng albumin trong nước tiểu từ 30-300 mg/ngày) thường là dấu hiệu đầu tiên của bệnh thận do đái tháo đường. Trong nhiều tháng hoặc nhiều năm, albumin niệu vi lượng có thể tự khỏi (đặc biệt nếu được điều trị – xem bên dưới), không thay đổi hoặc tiến triển tới albumin niệu đại lượng.
Albumin niệu đại lượng (lượng albumin trong nước tiểu hơn 300 mg/ngày) là tình trạng không phục hồi được, đánh dấu sự khởi đầu của quá trình suy giảm dần chức năng thận, tiến tới suy thận giai đoạn cuối trong tương lai.

Tỷ lệ mắc bệnh thận do đái tháo đường

Mặc dù bệnh thận do đái tháo đường phổ biến hơn ở những người bị bệnh đái tháo đường loại (type) 1, số lượng bệnh nhân mắc bệnh này do đái tháo đường loại (type) 2 là nhiều hơn. Điều này là do bệnh đái tháo đường loại 2 phổ biến hơn nhiều so với bệnh đái tháo đường loại 1.
Bệnh thận do đái tháo đường thực sự là nguyên nhân phổ biến nhất gây suy thận. Khoảng 20% bệnh nhân cần lọc máu mắc bệnh thận do đái tháo đường.
Lưu ý: Hầu hết những người bị bệnh đái tháo đường không cần lọc máu.
Bệnh đái tháo đường loại 1
Albumin niệu vi lượng hoặc đại lượng hiếm khi xảy ra tại thời điểm bệnh được chẩn đoán. Khoảng 14% bệnh nhân sẽ biểu hiện albumin niệu vi lượng 5 năm sau khi chẩn đoán. Sau 30 năm, tỉ lệ này là 40%. Một số bệnh nhân tiến triển từ albumin niệu vi lượng đến đại lượng và suy thận.
Bệnh đái tháo đường loại 2
Khoảng 12% bệnh nhân bị albumin niệu vi lượng và 2% bệnh nhân bị albumin niệu đại lượng tại thời điểm bệnh đái tháo đường được chẩn đoán đầu tiên. Đó không phải là vì bệnh thận do đái tháo đường diễn tiến nhanh hơn, mà là do nhiều bệnh nhân đái tháo đường loại 2 không được chẩn đoán sớm. Ở những bệnh nhân mà chức năng thận là bình thường khi được chẩn đoán bệnh đái tháo đường, albumin niệu vi lượng sẽ xuất hiện ở 15% bệnh nhân và albumin niệu đại lượng sẽ xảy ra ở 5% bệnh nhân trong vòng 5 năm.
Bệnh thận do đái tháo đường thường xảy ra phổ biến hơn ở những người châu Á và da đen so với người da trắng.

Chẩn đoán và đánh giá mức độ của bệnh thận do đái tháo đường

Bệnh thận do đái tháo đường được chẩn đoán khi có sự gia tăng lượng albumin trong nước tiểu và không có nguyên nhân rõ ràng nào khác. Xét nghiệm nước tiểu là một xét nghiệm thường quy đối với bệnh nhân đái tháo đường khi kiểm tra định kì. Xét nghiệm nước tiểu có thể phát hiện và định lượng nồng độ albumin (protein) trong nước tiểu.
Các xét nghiệm nước tiểu thường quy được chuẩn hóa bằng cách so sánh lượng albumin với creatinine trong mẫu nước tiểu. Nó được gọi là tỉ số albumin: creatinine (ACR). Creatinine là một sản phẩm phân giải của cơ.
Xét nghiệm máu có thể đánh giá chức năng thận bằng cách đo nồng độ creatinine là chất thường được thận lọc ra khỏi máu. Nếu chức năng thận bị suy giảm, nồng độ creatinine trong máu sẽ tăng lên. Chức năng thận sẽ được ước tính dựa vào nồng độ creatinine trong máu, giới tính và tuổi. Chỉ số này được gọi là độ lọc cầu thận ước tính (eGFR).

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Hoại tử vô mạch là một căn bệnh về xương, xảy ra do mất tạm thời hoặc vĩnh viễn nguồn cung cấp máu tới xương. Nếu không được cung cấp đủ máu, các tế bào xương sẽ bắt đầu chết đi khiến cho xương trở nên dễ gãy. Nếu hoại tử vô mạch ở gần khớp, bề mặt khớp
  • 28-05-2018
    Viêm động mạch Takayasu (tah-kah-YAH-sooz AHR-tuh-Rie-tis) là một dạng hiếm của bệnh lý viêm mạch (vasculitis) – tên gọi chung các rối loạn viêm mạch máu.Trong bệnh viêm động mạch Takayasu, tình trạng viêm chủ yếu ảnh hưởng động mạch chủ – động mạch
  • 28-05-2018
    Đúng vậy, dễ thấy nhất là ở trẻ em. Những trẻ uống kháng sinh nhiều thì sẽ rất dễ mắc bệnh nhiễm khuẩn, trong khi những bệnh này thường là do siêu vi và “thuốc” điều trị tốt nhất là thời gian (chờ bệnh tự khỏi). Có nhiều triệu chứng bệnh ở trẻ là
  • 28-05-2018
    Bệnh tiểu đường hay đái tháo đường là tình trạng đường trong máu quá cao. Bệnh tiểu đường có hai dạng là bệnh tiểu đường tuýp 1 và bệnh tiểu đường tuýp 2 (hay từng được gọi là bệnh tiểu đường khởi phát ở người lớn). Ở bệnh tiểu đường tuýp 2 (đái tháo
  • 28-05-2018
    Khi chúng ta nói, có những kích thích tác động vào các bộ phận cảm thụ của lưỡi, môi, má và thanh quản. Các kích thích đó theo cơ quan phân tích lời nói đến vùng phân tích vận động của lời nói (vùng Broca). Khi các bộ phận này không phối hợp được thật
  • 05-10-2018

    Trong giấc ngủ đêm, có tới 4% phụ nữ và 9% nam giới độ tuổi 30-60 bị ngừng thở đến hơn 30 lần (trung bình 5-10 lần/giờ). Thời gian ngừng thở kéo dài khoảng 10 giây hoặc lâu hơn có thể khiến họ từ giã cõi đời mà không ai biết. Y học hiện..