Sốt rét

Ở nước ta có khoảng 45 triệu dân sống trong vùng có lưu hành sốt rét, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Bệnh có nhiều ở các vùng rừng núi, vùng ven biển nước lợ và dễ gây thành dịch. Đặc biệt là các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên hoặc những vùng đồng bằng và

Sốt rét là bệnh gì?

Ở nước ta có khoảng 45 triệu dân sống trong vùng có lưu hành sốt rét, chiếm 3/4 diện tích cả nước. Bệnh có nhiều ở các vùng rừng núi, vùng ven biển nước lợ và dễ gây thành dịch.
Đặc biệt là các tỉnh miền Trung-Tây Nguyên hoặc những vùng đồng bằng và thành phố có số đông người thường xuyên qua lại vùng sốt rét lưu hành để làm ăn sinh sống thì luôn có số lượng lớn những người mắc sốt rét và có sự gia tăng rõ rệt vào những tháng đầu mùa mưa.
Triệu chứng của bệnh thường xảy ra sau 8-25 ngày ủ bệnh. Có các biểu hiện như người bị cảm cúm. Các triệu chứng điển hình của bệnh sốt rét là kịch phát, đó là sự xuất hiện theo chu kỳ của cơn lạnh đột ngột sau đó run rẩy và sau đó sốt và đổ mồ hôi.
Một cơn sốt thường kéo dài từ 2 đến 8 giờ, và ngoài cơn sốt bệnh nhân không có cảm giác bị bệnh. Sốt thường sẽ cao từ từ hoặc cao đột ngột rồi hạ sốt dần và người bệnh lại cảm thấy bình thường. Ngoài ra có thể có các triệu chứng đi kèm khác như là: nhức đầu, mệt mỏi, suy nhược, buồn nôn, đau cơ, rối loạn tiêu hóa…
Người mắc bệnh sốt rét thường xuyên bị thiếu máu, người gầy, da xanh, niêm mạc mắt nhợt. Sốt rét có thể làm cho lách to, phù nề do suy dinh dưỡng, phụ nữ có thai mắc sốt rét dễ bị đẻ non, sảy thai, thai chết lưu, trẻ em mắc sốt rét dễ bị suy dinh dưỡng, chậm lớn.
Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người bệnh dễ thành nguồn dịch lây truyền nhanh chóng từ người này sang người khác. Dễ chuyển thành ác tính và dẫn đến tử vong.
Lưu ý: Nếu thấy người cảm thấy có các triệu chứng hay dấu hiệu như trên, cần theo dõi nhiệt độ cơ thể thường xuyên bằng nhiệt kế hồng ngoại; Nếu uống thuốc hạ sốt không thấy đỡ, không nên tiếp tục cho uống mà cần đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để chẩn đoán và có phương pháp điều trị phù hợp nhất.

Triệu chứng, biểu hiện sốt rét

Triệu chứng, biểu hiện sốt rét
Loại ký sinh trùng mắc phải, tình trạng miễn nhiễm của ký chủ, cơ địa ký chủ (thai nghén, suy dinh dưỡng…). Thời kỳ ủ bệnh trong bệnh sốt rét là thời gian từ khi bị nhiễm ký sinh trùng cho đến khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng đầu tiên. Thời gian này trung bình từ 9 đến 30 ngày thay đổi tùy theo từng chủng loại ký sinh trùng sốt rét.
Biểu hiện lâm sàng kinh điển của bệnh sốt rét bao gồm các cơn sốt điển hình trải qua 3 giai đoạn: rét run, sốt cao, vã mồ hôi. Một cơn sốt thường kéo dài từ 2 đến 8 giờ, và ngoài cơn sốt bệnh nhân không có cảm giác bị bệnh. Ngoài ra có thể có các triệu chứng đi kèm khác như là: nhức đầu, mệt mỏi, suy nhược, buồn nôn, đau cơ, rối loạn tiêu hóa…
Đối với những người bị sốt rét lần đầu, kiểu sốt cơn điển hình như thế thì không thường gặp, trong khi những triệu chứng đi kèm khác lại thường xuất hiện, làm cho chúng ta dễ nhầm lẫn với các bệnh khác như là bệnh sốt xuất huyết, cúm, nhiễm siêu vi…
Người mắc bệnh sốt rét thường xuyên bị thiếu máu, người gầy, da xanh, niêm mạc mắt nhợt. Sốt rét có thể làm cho lách to, phù nề do suy dinh dưỡng, phụ nữ có thai mắc sốt rét dễ bị đẻ non, sảy thai, thai chết lưu, trẻ em mắc sốt rét dễ bị suy dinh dưỡng, chậm lớn.
Người mắc sốt rét không được điều trị sẽ chuyển thành sốt rét ác tính và chết. Nếu mắc bệnh sốt rét không được điều trị hoặc điều trị không đúng sẽ là nguồn bệnh để lây sang người khác làm cho nhiều người mắc bệnh, gây nên dịch sốt rét.
Bệnh sốt rét làm giảm sức lao động, tốn tiền mua thuốc nên giảm thu nhập, dẫn tới nghèo đói, vì vậy bệnh sốt rét có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của đời sống kinh tế xã hội.

Nguyên nhân bệnh sốt rét

Nguyên nhân bệnh sốt rét


Có khoảng 170 loài plasmodium, nhưng chỉ có 4 loài gây sốt rét ở người là:

  • P. falciparum. Chủ yếu gặp ở châu Phi, gây triệu chứng nặng nhất và chiếm phần lớn các trường hợp tử vong do sốt rét.
  • P. vivax. Chủ yếu gặp ở vùng nhiệt đới của châu Á, gây triệu chứng nhẹ hơn những có thể tồn tại trong gan và gây tái phát bệnh trong nhiều năm.
  • P. malariae. Được phát hiện thấy ở châu Phi, có thể gây triệu chứng sốt rét điển hình nhưng trong một số ít trường hợp có thể nằm yên trong máu mà không gây triệu chứng. Bệnh nhân có thể làm lây ký sinh trùng sang người khác qua vết đốt của muỗi hoặc qua truyền máu.
  • P. ovale. Chủ yếu gặp ở vùng Tây Phi. Tuy hiếm gặp nhưng cũng có thể gây bệnh tái phát.

Biến chứng bệnh sốt rét

Biến chứng bệnh sốt rét

  • Viêm gan mạn: Gan to, bờ sắc, sờ chắc tay, bệnh nhân hay mệt, ăn chậm tiêu, hay rối loạn tiêu hóa... Xét nghiệm enzym SGOT/SGPT và bilirubin tăng nhẹ. Khi soi ổ bụng hoặc sinh thiết gan thấy hình ảnh viêm gan mạn.
  • Xơ gan phát triển sau một thời gian viêm gan (xơ gan sau hoại tử) hoặc xơ gan tiến triển cùng với lách xơ.
  • Lách to: Là một triệu chứng đặc trưng của bệnh sốt rét. Bệnh nhân sống càng lâu trong vùng sốt rét hoặc bị bệnh càng nhiều thì lách càng to. Lách là 'mồ chôn' các hồng cầu nhiễm ký sinh trùng sốt rét và các hồng cầu chứa kháng nguyên.
  • Cường lách: Ở những bệnh nhân này dù trong máu đã có thể hết ký sinh trùng sốt rét nhưng hồng cầu, hồng cầu lưới và có thể cả bạch cầu và tiểu cầu đều giảm thấp. Những người bị sốt rét trong giai đoạn sơ nhiễm nếu phòng bệnh và điều trị tốt thì khi hết sốt, hết ký sinh trùng thì lách có thể co nhỏ lại.
  • Viêm cầu thận: Do ký sinh trùng sốt rét P.falciparum gây tắc mạch.
  • Hội chứng thận hư ở trẻ em.
  • Phù nề: Phù ở hai chân, mặt... do thiểu dưỡng, protein và albumin trong huyết thanh thấp, cũng có thể do viêm cầu thận hoặc hội chứng thận hư.
  • Biến chứng khác: Thiếu máu, thiếu sắt, thiếu axit folic trong máu, hạ đường máu, đau và viêm dây thần kinh...
 

Chẩn đoán bệnh sốt rét

Chẩn đoán bệnh sốt rét

Với các biệu hiện lâm sàng đa dạng, phong phú, trong giai đoạn khởi đầu triệu chứng thường không điển hình, mơ hồ, dễ nhầm lẫn với các bệnh lý khác thì yếu tố dịch tễ (sống hoặc đi đến vùng sốt rét lưu hành trong vòng 1 tháng, có tiền căn sốt rét trong vòng 2 năm) sẽ đóng vai trò quan trọng có thể giúp chúng ta nghĩ đến và xác định bệnh một cách dễ dàng.
Việc xác định bệnh sốt rét rất đơn giản bằng kỹ thuật soi tiêu bản máu tìm ký sinh trùng sốt rét, cũng như test nhanh tìm kháng nguyên sốt rét có thể được thực hiện ở các cơ sở y tế phường xã.
Chính vì vậy, trong giai đoạn dịch sốt rét lan rộng, khi chúng ta bị sốt, hoặc có triệu chứng nghi ngờ sốt rét thì cần sớm đến các cơ sở y tế địa phương để được chẩn đoán xác định và điều trị kịp thời

Điều trị bệnh sốt rét

Điều trị bệnh sốt rét

Sốt rét là một bệnh có thể dẫn đến tử vong, nhất là khi đã có biến chứng, nên luôn luôn được xếp vào thứ tự ưu tiên, cần được điều trị sớm để hy vọng có kết quả tốt.
Sự chọn lựa thuốc, cách dùng thuốc tùy theo từng loại ký sinh trùng mắc phải, tùy từng vùng địa lý còn nhạy cảm với thuốc hay không, cũng như tình trạng lâm sàng của bệnh nặng hay nhẹ.
Điều trị sốt rét cần phải đạt được 2 mục đích: cắt cơn sốt, làm sạch ký sinh trùng, phục hồi sức khỏe cho bệnh nhân và ngăn ngừa tái phát, ngăn ngừa sự lây truyền mầm bệnh qua những người khác.
Hiện nay, bên cạnh những loại thuốc kinh điển (quinine, chloroquine, primaquine…), nhiều dược chất mới (artemisinine, arterakin…) cũng đã được đưa vào điều trị, giúp cho chúng ta có sự chọn lựa và phối hợp thuốc tốt nhất để đạt được mục đích điều trị

Phòng ngừa bệnh sốt rét

Phòng ngừa bệnh sốt rét

Có nhiều phương pháp khác nhau để phòng chống muỗi truyền bệnh sốt rét. Người ta có thể diệt muỗi bằng hóa chất hoặc ngăn sự tiếp xúc giữa người và muỗi truyền bệnh.
Vì đa số muỗi sốt rét vào nhà đốt rồi nghỉ lại trong nhà nên các chương trình phòng chống sốt rét ở một số nước nhiệt đới coi trọng việc phun hóa chất có tác dụng diệt côn trùng kéo dài vào tường vách.
Hiện nay, các vùng có nguy cơ cao mắc bệnh sốt rét thì biện pháp dùng màn tẩm hóa chất trong cộng đồng để phòng chống muỗi được sử dụng nhiều. Và có một phương pháp mang lại kết quả lâu dài đó là san lấp các ao tù, vũng nước để loại trừ các ổ loăng quăng (ấu trùng của muỗi).
Ngoài ra người ta cũng có thể loại trừ các ổ loăng quăng bằng cách thường xuyên vớt rong, cỏ hai bên bờ ao, khơi thông dòng chảy hoặc thả cá vào bể, chum, vại chứa nước để cá ăn loăng quăng.
Ở các vùng có bệnh sốt rét lưu hành, bà con cũng cần chú ý thực hiện một số biện pháp nhằm ngăn cản sự tiếp xúc giữa muỗi và người như mặc quần dài, áo tay dài khi đi làm nương, làm rừng, bôi thuốc xua muỗi lên những nơi da hở, đốt hương muỗi, dọn dẹp nhà cửa gọn gàng…
Bà con cũng có thể đóng lưới ở tất cả các cửa sổ cũng như cửa ra vào và sử dụng quạt máy để giảm tối đa sự xâm nhập của muỗi vào nhà. Và điều quan trọng nhất, hữu hiệu nhất để phòng chống sốt rét hiện nay là 'Ngủ màn thường xuyên, màn phải được tẩm hóa chất và phun hóa chất diệt muỗi'.

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Lichen xơ hóa, hay còn gọi là bệnh bạch biến âm hộ hoặc vết trắng âm đạo, là một bệnh lý da không phổ biến. Bệnh chủ yếu ảnh hưởng đến các bộ phận sinh dục và hậu môn. Nó thường xảy ra ở âm hộ (môi ngoài âm đạo) của phụ nữ. Đàn ông có thể bị ở quy đầu.
  • 28-05-2018
    Tràn dịch màng tinh là tình trạng bìu trở nên sưng, viêm do ứ đọng các dịch quanh tinh hoàn. Đây là nguyên nhân thường gặp gây nên sưng quanh tinh hoàn ở những người đàn ông lớn tuổi, dù nó có thể xảy ra ở bất kì giai đoạn nào và đôi khi kèm theo chấn
  • 28-05-2018
    Nữ giới ở độ tuổi hơn 60 dễ mắc bệnh, và tiên lượng không tốt, tỉ lệ sống 5 năm đạt 3%. So với ung thư phổi, ung thư dạ dày, thì tỉ lệ phát cúa bệnh ung thư túi mật có xu hướng tăng cao. Ung thư túi mật là một bệnh lý tương đối hiếm gặp và có tiên lượng
  • 28-05-2018
    Đau thắt ngực là tình trạng đau ngực gây ra bởi động mạch vành bị hẹp vì tắc nghẽn hoặc co thắt. Lượng máu để nuôi tim không đủ, dẫn đến tình trạng tim bị thiếu oxy để bơm máu. Cơn đau thắt ngực có thể là dấu hiệu của một căn bệnh về tim nghiêm trọng
  • 28-05-2018
    Bệnh khí phế thũng thay đổi cấu trúc của phổi theo một số cách quan trọng Bình thường phổi rất xốp và đàn hồi. Khi hít vào, thành ngực nở ra, làm phổi cũng nở ra. Tương tự như khi một miếng xốp đang bị bóp chặt khi được thả ra sẽ hút nước vào bên trong
  • 28-05-2018
    Giun móc là một loài ký sinh trùng sống trong ruột non của người. Bệnh lưu hành ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới. Phương thức lây truyền: Ấu trùng giun móc xâm nhập qua da, niêm mạc và qua đường ăn uống. Đặc điểm của giun móc là khả năng hút máu