Phổi tắc nghẽn mãn tính

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hay COPD, là tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí lâu ngày kèm với viêm phế quản mạn, khí phế thũng, hay cả hai. Tình trạng tắc nghẽn này tăng dần theo thời gian. Viêm phế quản mạn tính được định nghĩa là tình trạng ho kéo

Tổng quan về bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hay COPD, là tình trạng tắc nghẽn đường dẫn khí lâu ngày kèm với viêm phế quản mạn, khí phế thũng, hay cả hai. Tình trạng tắc nghẽn này tăng dần theo thời gian.
Viêm phế quản mạn tính được định nghĩa là tình trạng ho kéo dài không gây ra bởi những nguyên nhân khác và có đờm từ 3 tháng trở lên mỗi năm trong vòng 2 năm liên tiếp.
Ở bệnh viêm phế quản mạn tính, các tuyến tiết nhầy ở phổi trở nên lớn hơn. Đường dẫn khí bị viêm và thành phế quản dày lên. Những thay đổi trên và sự biến mất của các phế nang gắn với chúng làm giới hạn thông khí do các thành ống dẫn khí bị méo mó và lòng ống dẫn khí bị hẹp lại.
Khí phế thũng là tình trạng tăng kích thước vĩnh viễn một cách bất thường của các túi khí (phế nang) nằm ở cuối đường dẫn khí của phổi. Khí phế thũng cũng phá hủy thành của các phế nang.
Có 3 dạng khí phế thũng: khí phế thũng trung tâm, khí phế thũng toàn thể và khí phế thũng ngoại biên.
Phổi tắc nghẽn mãn tính

Tại Hoa Kỳ, có khoảng 14,2 triệu người được chẩn đoán là COPD, 12,5 triệu người bị viêm phế quản mạn tính, và 1,7 triệu người bị khí phế thũng. Người ta ước lượng rằng cũng có chừng đó người tại Hoa Kỳ bị COPD nhưng chưa được phát hiện bệnh. Số người bị COPD đã gia tăng 41,5% tính từ năm 1982.
  • Gần 8 - 17% nam giới Mỹ và 10 - 19% phụ nữ Mỹ bị tắc nghẽn đường hô hấp mạn tính. Sự tắc nghẽn này làm giảm dòng khí lưu thông qua phổi khi thở ra. Trong suốt 1 thập kỷ trước, số phụ nữ bị COPD đã tăng khoảng 30%.
  • Theo một nghiên cứu vào năm 1985, tỷ lệ tử vong do COPD ở những bệnh nhân 55-84 tuổi vào khoảng 200/100.000 người đối với nam và 80/100.000 người đối với nữ tại Hoa Kỳ. Mặc dù nam giới có tỷ lệ tử vong cao hơn nhưng tỷ lệ tử vong ở nữ giới cũng đang gia tăng.
Trên thế giới, do có hơn 1,2 tỷ người tiếp xúc với khói thuốc nên số người bị COPD cũng khá cao.
  • Vào năm 1990, tỷ lệ mắc bệnh COPD trên thế giới là 9,4/1.000 ở nam và 7,3/1.000 ở nữ.
  • Một nghiên cứu ở Tây Ban Nha cho thất có khoảng 9,1% người ở độ tuổi từ 40-69 bị COPD. Trong số đó có 78% là nam giới.
  • Tỷ lệ tử vong do COPD thay đổi tùy theo quốc gia. Chẳng hạn như có 400/100.000 trường hợp tử vong ở nam giới độ tuổi 65-74 tại Romania, trong khi đó tỷ lệ này ở Nhật Bản là dưới 100/100.000 người.

Triệu chứng, biểu hiện của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Triệu chứng, biểu hiện của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Hầu hết những người bị COPD hút ít nhất 10 - 20 điếu thuốc mỗi ngày trong 20 năm hoặc hơn trước khi thấy triệu chứng. Do đó, thường thì COPD không được chẩn đoán cho đến khoảng 40 - 49 tuổi.
Những dấu hiệu và triệu chứng thường gặp của COPD bao gồm:
  • Ho dai dẳng hoặc cấp tính.
  • Khó thở hoặc thở hơi ngắn là triệu chứng có ý nghĩa nhất, nhưng nó thường không xuất hiện cho đến khoảng 50-59 tuổi.
  • Thở khò khè (có tiếng rít trong khi thở), đặc biệt là khi gắng sức hoặc lúc triệu chứng trở nặng.
  • Những triệu chứng sau có thể xảy ra khi tình trạng bệnh nhân nặng hơn:
  • Khoảng thời gian giữa các đợt khó thở ngắn hơn.
  • Tím tái hoặc suy tim phải có thể xảy ra.
  • Chán ăn và sụt cân đôi khi có thể xảy ra và là dấu hiệu tiên lượng nặng.
Hội Lồng ngực Hoa Kỳ (ATS - American Thoracic Society) đề ra 3 giai đoạn nặng của COPD dựa theo chức năng phổi:
  • Giai đoạn I: FEV1 bằng hoặc lớn hơn 50% giá trị dự đoán.
  • Giai đoạn II: FEV1 từ 35 - 49% giá trị dự đoán.
  • Giai đoạn III: FEV1 dưới 35% giá trị dự đoán

Nguyên nhân gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Nguyên nhân gây bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

  • Hút thuốc hoặc tiếp xúc với khói thuốc
Hút thuốc hoặc tiếp xúc với khói thuốc là nguyên nhân hàng đầu gây COPD. COPD xảy ra ở khoảng 15% người nghiện thuốc và việc sử dụng thuốc lá chiếm 90% nguy cơ mắc bệnh này. Hút thuốc lá thụ động hoặc tiếp xúc với khói thuốc cũng làm gia tăng tỷ lệ nhiễm trùng đường hô hấp dẫn đến giảm chức năng của phổi.
Những người hút thuốc lá có thể tích thở ra gắng sức (FEV - forced expiratory volume) giảm rất nhanh. FEV là thể tích không khí tối đa mà người đó có thể thở ra trong một khoảng thời gian quy định ngay sau khi hít vào tối đa. Con số nhỏ phía dưới chỉ khoảng thời gian quy định tính bằng giây. Chẳng hạn như FEV1 là thể tích không khí tối đa có thể thở ra trong vòng 1 giây. Giảm FEV làm cho người bệnh thở hơi ngắn và khó thở.
  • Ô nhiễm không khí
Người ta vẫn chưa xác định được chắc chắn việc ô nhiễm không khí có gây COPD hay không. Tuy nhiên, nếu có thì hậu quả của nó cũng nhỏ so với thuốc lá.
Hút thuốc lá làm tăng nguy cơ mắc bệnh phổ tắc nghẽn mãn tính
  • Tăng nhạy cảm đường hô hấp
Một số bệnh nhân COPD bị tăng nhạy cảm đường hô hấp, là tình trạng đường hô hấp phản ứng quá mức với những chất kích thích từ không khí, chẳng hạn như khói thuốc lá và chất ô nhiễm.
Vai trò làm yếu tố nguy cơ của chứng bệnh này đối với COPD ở những người hút thuốc vẫn chưa được chứng mình rõ ràng. Tuy nhiên, theo một giả thiết, bệnh nhân tăng nhạy cảm đường hô hấp và có hút thuốc sẽ tăng nguy cơ bị COPD và tăng tỷ lệ suy giảm chức năng phổi.
  • Thiếu men Alpha 1-antitrypsin
Men alpha 1-antitrypsin là một loại protein của cơ thể được gan sản xuất để giúp bảo vệ phổi khỏi bị tổn thương. Thiếu men alpha 1-antitrypsin là khi gan không sản xuất đủ loại protein này.
Thiếu men alpha 1-antitrypsin có tính chất di truyền, và nó là yếu tố nguy cơ di truyền duy nhất của COPD được biết đến. Nó chiếm khoảng dưới 1% số trường hợp bị COPD ở Hoa Kỳ. Thiếu men alpha 1 -antitrypsin nặng có thể dẫn đến khí phế thũng ở những người trẻ tuổi, và ở những người không hút thuốc, độ tuổi khởi phát trung bình của khí phế thũng là 53 tuổi, đối với những người hút thuốc là 40 tuổi.

Các yếu tố nguy cơ của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Các yếu tố nguy cơ của bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Yếu tố nguy cơ đối với COPD bao gồm:
  • Tiếp xúc với khói thuốc lá: Các yếu tố nguy cơ quan trọng nhất đối với COPD là hút thuốc lá trong thời gian dài. Nhiều năm hút thuốc và số bao thuốc hút thêm làm nguy cơ càng lớn. Các triệu chứng của COPD thường xuất hiện khoảng 10 năm sau khi bắt đầu hút thuốc. Hút thuốc ống, người hút thuốc xì gà và những người tiếp xúc với số lượng lớn khói thuốc cũng có nguy cơ.
  • Nghề nghiệp tiếp xúc với bụi và hóa chất: Tiếp xúc lâu dài với khói hoá chất, khói và bụi có thể gây kích ứng và làm viêm phổi.
  • Trào ngược dạ dày thực quản (GERD): Tình trạng này là dạng nghiêm trọng của trào ngược acid. GERD có thể làm cho COPD nặng hơn và thậm chí có thể gây ra COPD ở một số người.
  • Tuổi: COPD phát triển chậm hơn, do đó hầu hết mọi người ít nhất 40 tuổi khi các triệu chứng bắt đầu.
  • Di truyền học: Một rối loạn di truyền hiếm được gọi là thiếu alpha 1- antitrypsin là nguồn gốc của một số trường hợp COPD. Các nhà nghiên cứu nghi ngờ rằng yếu tố di truyền khác cũng có thể làm cho một số người hút thuốc lá dễ bị bệnh.

Điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Mục tiêu điều trị đối với COPD là cải thiện chất lượng sống bằng cách phòng ngừa các triệu chứng và cơn nặng của bệnh, do đó bảo toàn chức năng tối ưu của phổi.
Nếu bị chẩn đoán là COPD, bạn nên tìm hiểu kỹ về bệnh của mình và tham gia tích cực vào chương trình điều trị.

Tại nhà

Ngừng hút thuốc là việc quan trọng nhất bạn có thể làm để cải thiện tình hình. Hầu hết những bệnh nhân bị COPD đang hút thuốc hoặc đã từng hút thuốc trước đây. Kế hoạch ngừng hút thuốc là một phần cơ bản trong toàn bộ kế hoạch điều trị. Tuy nhiên, tỷ lệ bỏ thuốc thành công vẫn thấp do những nguyên nhân sau:
  • Sức gây nghiện của nicotine.
  • Đáp ứng của cơ thể với những tác nhân kích thích liên quan đến khói thuốc.
  • Vấn đề tâm lý, bao gồm stress, trình độ văn hóa thấp, và những chiến dịch phát triển mạnh mẽ của nền công nghiệp thuốc lá.
  • Quá trình chuyển từ hút thuốc sang không hút thuốc gồm 5 giai đoạn:
  • Trước khi suy tính
  • Suy tính
  • Chuẩn bị
  • Hành động
  • Duy trì
Tiến trình bỏ thuốc có thể có sự can thiệp của nhiều phía, bao gồm:
  • Bản thân
  • Nhóm
  • Bác sĩ
  • Nơi làm việc
  • Các chương trình cộng đồng
Một chương trình bỏ thuốc thành công thường dùng các nguồn trợ lực sau:
  • Giáo dục sức khỏe
  • Theo dõi
  • Phòng tái phát
  • Những lời khuyên về thay đổi lối sống
  • Chương trình hỗ trợ của xã hội
  • Điều trị phụ thêm (chẳng hạn như uống thuốc)

Tại bệnh viện

Ba mục tiêu chính của việc điều trị COPD là:
  • Giảm giới hạn thông khí.
  • Phòng ngừa và điều trị những biến chứng (như giảm ôxy máu, nhiễm trùng).
  • Giảm triệu chứng hô hấp và cải thiện chất lượng sống.
Những cơn cấp của COPD là một trong những nguyên nhân chính khiến bệnh nhân phải nhập viện tại Hoa Kỳ.
Bạn có thể phải cần nhập viện nếu bị suy chức năng hô hấp nặng, nếu bệnh tiến triển, hoặc nếu bạn có một bệnh về hô hấp nghiêm trọng khác (như viêm phổi, viêm phế quản cấp). Mục tiêu nhập viện là để điều trị triệu chứng và ngăn ngừa diễn tiến xấu hơn).
Có thể bạn sẽ phải vào phòng Chăm sóc tích cực (ICU - Intensive care unit) nếu cần phải thở máy xâm lấn hoặc không xâm lấn hoặc nếu có những triệu chứng sau:
  • Lú lẫn
  • Lơ mơ
  • Mỏi cơ hô hấp
  • Thiếu ôxy máu nặng
  • Toan hô hấp (tình trạng tích trữ CO2 trong máu)

Thuốc

Các bác sĩ có thể cho rằng bạn cần phải dùng thuốc để giảm bớt các triệu chứng.
Cai thuốc lá bằng liệu pháp thay thế nicotine
  • Dùng thuốc có theo dõi chặt là phần bổ sung quan trọng trong kế hoạch cai thuốc.
  • Nicotine - một thành phần trong thuốc lá - là tác nhân chính gây nghiện. Không sử dụng nicotine nữa sẽ gây cho bạn những tác dụng phụ khó chịu như: bứt rứt, kích thích, khó tập trung, tức giận, mệt mỏi, lơ mơ, trầm cảm, và dễ tỉnh giấc khi ngủ. Những hiện tượng này thường xảy ra vào vài tuần đầu sau khi bỏ thuốc.
  • Liệu pháp thay thế nicotine giảm những triệu chứng cai nghiện trên. Nếu bạn cần phải hút thuốc trong vòng 30 phút sau khi tỉnh dậy, có nhiều khả năng là bạn bị nghiện nặng và sẽ cảm thấy khá hơn khi dùng liệu pháp này.
  • Nicotine polacrilex là kẹo gôm. Có 2 loại là 2mg và 4mg. Nếu bạn hút 1 gói/ngày, bạn nên dùng loại 4mg. Nếu bạn hút ít hơn 1 gói/ngày, bạn nên dùng loại 2mg. Nên nhai mỗi giờ và cũng nên nhai mỗi khi cảm thấy muốn hút thuốc trong vòng 2 tuần đầu. Bạn có thể sẽ giảm dần lượng kẹo sau 3 tháng kế tiếp.
  • Miếng dán nicotine cũng có thể được sử dụng. Tác dụng phụ thường gặp nhất là da bị kích thích nhẹ ở vùng dán. Miếng dán này được bán dưới nhiều tên thương mại khác nhau như: Nicoderm, Nicotrol, và Habitrol. Mỗi loại được thiết kế để giảm nicotine sau 6 - 10 tuần.
  • Dùng thuốc chống trầm cảm bupropion (Zyban) cũng có hiệu quả. Nó là thuốc không chứa nicotine giúp bỏ thuốc. Bupropion cũng có hiệu quả đối với những người không có khả năng bỏ thuốc bằng liệu pháp nicotine thay thế.
Corticoid hít
  • Một số người bị COPD đáp ứng tốt với corticoid đường uống có thể duy trì trong thời gian dài với corticoid hít.
  • Việc sử dụng loại thuốc này rất phổ biến mặc dù bằng chứng về hiệu quả của nó đối với COPD cũng rất ít. Corticoid không làm chậm lại quá trình suy giảm chức năng phổi. Tuy nhiên, chúng làm giảm tần số xuất hiện cơn và cải thiện tính chất bệnh cùng với chất lượng sống ở một số bệnh nhân COPD.
  • Corticoid dạng hít có ít tác dụng phụ hơn dạng uống, nhưng chúng cho hiệu quả thấp hơn, ngay cả khi được sử dụng với liều cao.
Có rất nhiều thuốc điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
Thuốc đồng vận beta 2 - thuốc giãn phế quản
  • Thuốc giãn phế quản đồng vận beta 2 dạng hít có tác dụng làm giãn và thông đường thở. Chúng có tác dụng nhanh, thường là trong vài phút.
  • Thuốc đồng vận beta 2 được dùng chủ yếu để giảm triệu chứng của COPD. Đồng vận beta 2 dạng hít là cách điều trị lựa chọn cho cơn COPD cấp.
  • Có 2 loại đồng vận beta 2 tác dụng kéo dài (formoterol, salmeterol) được sử dụng. Chúng có thể có ích nếu như bạn thường dùng loại tác dụng ngắn hoặc bạn thấy xuất hiện triệu chứng vào ban đêm.
Thuốc ức chế đối giao cảm - giãn phế quản
Duy trì điều trị bằng thuốc kháng đối giao cảm dạng xịt (ipratropium bromide) có thể sẽ hiệu quả hơn đồng vận beta 2 đối với những bệnh nhân COPD, đặc biệt trong việc giảm thở hụt hơi.
Ipratropium bromide làm thông đường thở nhưng có ít tác dụng phụ.
  • Thuốc được cho dưới dạng bình xịt có định liều, khoảng 2 - 4 nhát, 4 lần mỗi ngày. Có thể cho thêm đồng vận beta 2 nếu cần thiết.
  • Mặc dù thuốc cho tác dụng chậm hơn đồng vận beta 2 dạng hít (khoảng 30 - 60 phút), nhưng tác dụng của nó lại kéo dài hơn. Do đó, nó không thích hợp để dùng với mục đích khẩn cấp.
  • Những người bị cơn COPD cấp đáp ứng tốt với đồng vận beta 2 dạng hít và kháng đối giao cảm dạng xịt. Việc điều trị thường bắt đầu với việc cho đồng vận beta 2 dạng hít qua máy xông. Cho thuốc dạng này cũng làm giảm tác dụng phụ. Ipratropium bromide dạng xịt cũng thường có thể được thêm vào.
Thuốc giãn phế quản tác dụng kéo dài
  • Methylxanthine, chẳng hạn như theophylline, là một nhóm thuốc có liên quan đến caffein. Chúng tác động trên bệnh COPD bằng cách làm thông đường thở. Ngoài ra, methylxanthine làm giảm viêm, cải thiện chức năng cơ hô hấp, kích thích trung tâm hô hấp của não.
  • Thêm theophyline vào nhóm thuốc giãn phế quản có thể có ích mặc dù đáp ứng với theophyline khác nhau tùy theo mỗi bệnh nhân. Tuy nhiên, người ta ngày càng ít sử dụng chúng trong thập kỷ vừa qua do nguy cơ xảy ra những tác dụng phụ không mong muốn. Những tác dụng phụ bao gồm: bứt rứt, run giật, buồn ngủ, nôn ói, loạn nhịp tim và đột quỵ.
Corticoid dạng uống
Corticoid được dùng với những người không cải thiện sau khi đã dùng các loại thuốc khác hoặc những người đang lên cơn cấp tính. Corticoid dạng uống được dùng điều trị thành công ở những người bị cơn cấp tính. Chúng cải thiện triệu chứng và chức năng của phổi trong những trường hợp này. Corticoid dạng uống thường không được khuyến khích dùng trong thời gian dài do những phản ứng phụ của chúng.
Kháng sinh
  • Những bệnh nhân COPD thường hay bị nhiễm trùng đường hô hấp dưới, mục đích của kháng sinh không phải là để ngăn chặn vi trùng mà là điều trị những cơn cấp.
  • Điều trị bằng kháng sinh có lợi cho những người bị cơn cấp với ít nhất 2 trong số những triệu chứng sau (tiêu chuẩn Winnipeg): thở hụt hơi tăng nhiều, tăng sản xuất đờm, tăng xuất tiết đờm.
  • Loại thuốc được lựa chọn đầu tiên bao gồm amoxicillin, cefaclor, hoặc trimethoprim/sulfamethoxazole. Thứ hai là azithromycin, clarithromycin, và fluoroquinolone.
Thuốc loãng đờm
Thuốc làm loãng đờm không chỉ làm giảm độ đặc của đờm mà còn tăng độ thanh thải của nó nữa.
Oxi
  • COPD thường đi kèm với thiếu ôxy máu.
  • Trong nhiều trường hợp, triệu chứng thiếu ôxy máu không xuất hiện lúc bệnh nhân nghỉ ngơi mà là vào lúc họ gắng sức. Ngay cả khi những nghiên cứu xác định ích lợi lâu dài của việc thở ôxy đơn độc đối với các hoạt động thể lực vẫn chưa được tiến hành thì việc cho thở oxi tại nhà vẫn thường được các bác sĩ khuyên dùng đối với những người bị giảm ôxy máu khi gắng sức. Thở oxi khi gắng sức có thể giúp làm tăng áp lực động mạch phổi, giảm triệu chứng thở hụt hơi và tăng khả năng vận động.
  • Việc thở oxi đối với những bệnh nhân COPD cũng có thể cần thiết trong khi đi máy bay do áp suất trong cabin máy bay thấp. Bạn có thể chuẩn bị cho chuyến bay bằng cách thở ôxy trước khi khởi hành.
  • Những bệnh nhân COPD bị thức dậy giữa chừng bởi những triệu chứng của nó cũng có thể cần phải thở ôxy. Thở oxi thường thì an toàn. Người ta đã nhận biết được độc tính của oxi liều cao, nhưng vẫn tìm thấy rất ít những tác hại lâu dài của thở ôxy liều thấp. Do việc thở ôxy lâu dài làm giảm tỷ lệ tử vong với những người bị COPD nặng, tăng khả năng sống còn và chất lượng sống đã lấn át những nguy cơ có thể xảy ra.
  • Mối nguy hiểm lớn nhất của liệu pháp này là cháy và nổ. Những bệnh nhân COPD, gia đình, và người chăm sóc không nên hút thuốc khi máy thở oxi đang được sử dụng. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thì những tai nạn lớn thường hiếm gặp và có thể tránh nếu được huấn luyện kỹ càng.

Phẫu thuật

Trong vòng 50-75 năm gần đây, nhiều phương pháp phẫu thuật đã được thử để cải thiện triệu chứng và phục hồi chức năng của phổi ở những người bị khí phế thũng nhưng chỉ có mổ cắt bóng khí và có thể là phẫu thuật làm giảm thể tích phổi được chứng minh là có hiệu quả.
Phẫu thuật làm giảm thể tích phổi được chứng minh là có hiệu quả
Mổ cắt bóng khí
  • Là phẫu thuật cắt những bóng khí lớn ở phổi do khí phế thũng nằm ở phần ngoại vi của phổi. Phẫu thuật này được xem là phẫu thuật tiêu chuẩn trong nhiều năm. Bóng khí ở những bệnh nhân bị khí phế thũng thường có kích thước thay đổi từ 1 - 4 cm đường kính, tuy nhiên, bóng khí có thể chiếm hơn 33% nửa ngực.
  • Các bóng khí có thể chèn ép những nhu mô phổi gần kề, giảm lượng máu đến và giảm thông khí cho những mô khỏe mạnh. Loại bỏ những bóng khí này sẽ giúp phần phổi bị chèn ép nở ra và chức năng được cải thiện.
Phẫu thuật cắt phổi
Lần đầu tiên được thực hiện cách đây gần 40 năm. Thông thường, phẫu thuật viên sẽ lấy đi 20-30% từ phần trên của mỗi phổi, là khu vực thường bị thương tổn nhiều nhất do khói thuốc. Người ta lý giải rằng việc lấy đi phần phổi bị bệnh sẽ làm tăng đường kính đường dẫn khí ở những phần phổi còn lại và do đó sẽ cải thiện chức năng phổi và thông khí, sẽ làm giảm triệu chứng.
Thủ thuật này có tỷ lệ tử vong từ 0 - 8% và một số biến chứng. Tiêu chuẩn để xác định những ai nên phẫu thuật gần đây đã được công bố. Nói chung, tất cả những người nên phẫu thuật là những người có các triệu chứng của khí phế thũng nặng, phì đại đường thở và bóng khí do khí phế thũng một cách nhanh chóng, và bằng chứng của khí phế thũng trên HRCT. Một nghiên cứu tiền cứu đa trung tâm lớn vừa mới được hoàn thành cho thấy những bệnh nhân bị bệnh phổi ở thùy trên và dung nạp kém với vận động thể lực có thể được hưởng lợi từ phương pháp này.
Ghép phổi
Ghép phổi là cách điều trị tương đối mới đối với những bệnh nhân bị bệnh phổi nặng. Những người bị COPD nằm trong nhóm lớn nhất những người được ghép. Thời gian ghép rất khó xác định, nhưng những người được lựa chọn để ghép là người chỉ còn có thể sống được dưới 2 năm nữa do COPD nếu không được ghép.

Phòng ngừa bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

Phòng ngừa bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính

COPD không thể chữa được nhưng có thể phòng ngừa. Để phòng COPD cần phải:
  • Không hút thuốc, nếu có hút thuốc thì hãy bỏ thuốc ngay.
  • Hạn chế tiếp xúc với khói thuốc bằng cách không cho phép hút thuốc trong nhà hoặc ngồi ở khu vực không hút thuốc khi đi ra ngoài. Bạn cũng nên tránh khói do củi cháy hoặc cho nấu ăn.
  • Hạn chế không khí ô nhiễm trong nhà.
  • Tránh bị nhiễm trùng hô hấp khi bị cảm cúm. Bạn cũng nên thường xuyên rửa tay do virus có thể di chuyển từ tay qua miệng do tiếp xúc.
  • Đấu tranh cho không khí trong lành để giảm bớt số người bị COPD do ô nhiễm môi trường.

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Ghép tim là thay thế tim của người bị bệnh bằng tim của người khỏe mạnh. Ghép tim là gì? Người cho ở đây là những người đã chết nhưng quyết định hiến tim với sự đồng ý của bản thân và của gia đình họ. Ca ghép tim đầu tiên được thử nghiệm vào năm 1967,
  • 13-04-2024
    Tóc có thể bị rụng theo từng mảng hoặc khắp da đầu. Nguyên nhân dẫn đến rụng tóc có nhiều, một trong số đó là bệnh nấm ngoài da. Nếu tóc bị rụng do các nguyên nhân sau thì không cần phải điều trị bằng thuốc: Rụng tóc ở trẻ sơ sinh. Rất nhiều trẻ sơ sinh
  • 28-05-2018
    Băng huyết sau sinh được định nghĩa khi lượng máu chảy từ đường sinh dục của bà mẹ > 500 ml sau đẻ. Hiện nay, băng huyết sau sinh vẫn còn là một trong những tai biến sản khoa gây tử vong hàng đầu cho bà mẹ trên thế giới và Việt Nam. Không những thế,
  • 28-05-2018
    Túi thừa Meckel là bệnh bẩm sinh xảy ra khi có túi nhỏ phình ra ngoài thành ruột non. Túi nhỏ này thường dài từ 2,5 đến 5cm. Túi thừa có thể được tạo nên từ mô giống với mô của dạ dày hoặc tụy. Nếu mô này là mô giống với dạ dày, chúng sẽ tạo axit dạ
  • 22-08-2018
    Ung thư xảy ra khi tế bào cũ không chết đi vào lúc chúng cần phải chết hoặc bị hư hỏng. Thông thường, cơ thể sửa chữa hoặc phá hủy những tế bào này. Đôi khi, các tế bào này có thể phát triển ngoài tầm kiểm soát. Điều này hình thành các khối u. Các khối
  • 28-05-2018
    Hai thận nằm ở hai bên vùng hông, phía trước là các quai ruột và phía sau là cột sống. Mỗi thận có kích thước bằng một quả cam lớn, nhưng có hình hạt đậu.