Ghép tim

Ghép tim là thay thế tim của người bị bệnh bằng tim của người khỏe mạnh. Ghép tim là gì? Người cho ở đây là những người đã chết nhưng quyết định hiến tim với sự đồng ý của bản thân và của gia đình họ. Ca ghép tim đầu tiên được thử nghiệm vào năm 1967,

Ghép tim là thay thế tim của người bị bệnh bằng tim của người khỏe mạnh.

Ghép tim là gì?

Người cho ở đây là những người đã chết nhưng quyết định hiến tim với sự đồng ý của bản thân và của gia đình họ.

Ca ghép tim đầu tiên được thử nghiệm vào năm 1967, cho đến nay mỗi năm tại Mỹ có tới hơn 2000 ca ghép tim và con số này có thể còn tăng hơn nếu lượng tim hiến tặng nhiều hơn và có giá trị hơn.

Người phẫu thuật ghép tim thường có tuổi thọ bao lâu?

Điều này còn phụ thuộc nhiều yếu tố trong đó bao gồm cả tuổi tác, tình trạng sức khỏe nói chung. Thống kê gần đây cho thấy có tới 80% bệnh nhân sau khi ghép tim kéo dài tuổi thọ ít nhất 2 năm.

Gần 85% trở lại làm việc và tham gia các hoạt động khác mà họ yêu thích. Rất nhiều người trong số họ thích bơi, đạp xe, chạy và các môn thể thao khác.

Nguyên nhân khiến phải ghép tim

Nguyên nhân khiến phải ghép tim

Tại sao cần phải ghép tim?

Khi trái tim của một người yếu đi không thể hồi phục được và không còn đủ khả năng đảm nhiệm trọng trách của mình, mặc dù các bộ phận khác của cơ thể vẫn hoàn toàn khỏe mạnh, lúc này cần đặt vấn đề ghép tim.

Một người cần phải tiến hành ghép tim trước hết bởi:

Cơ tim bị giãn lớn

Động mạch vành có chứa các vết sẹo do hậu quả của cơn nhồi máu cơ tim

Có các khuyết tật bẩm sinh về tim

Đáng lưu ý rằng hiện nay có rất nhiều phương cách xử lý với các bệnh về tim, từ các loại thuốc hiện đại đến những phương pháp phẫu thuật tiên tiến. Khi bạn đã quyết định liệu pháp điều trị cho mình, điều quan trọng là phải lựa chọn được bác sĩ giỏi chuyên về tim.

Biến chứng của ghép tim

Biến chứng của ghép tim

Rủi ro gì có thể xảy ra?

Hầu hết các trường hợp tử vong từ các ca ghép tim là do nhiễm trùng hoặc người nhận không thích ứng được.

Khi bệnh nhân dùng thuốc chống nhiễm kích ứng với ghép tim có thể gây suy thận, huyết áp cao, loãng xương và u lym phô (một loại ung thư có ảnh hưởng đến các tế bào của hệ miễn dịch).

Có tới gần một nửa bệnh nhân tiến hành ghép tim gặp các bệnh về động mạch vành. Rất nhiều trong số họ không có triệu chứng như các cơn đau thắt ngực chẳng hạn, bởi họ không có cảm giác với quả tim mới của họ.

Sự 'thải loại' là gì?

Thông thường, hệ miễn dịch của cơ thể bảo vệ cơ thể khỏi bị nhiễm trùng. Điều này diễn ra khi các tế bào của hệ miễn dịch di chuyển khắp cơ thể kiểm tra xem có dấu hiệu gì khác thường từ các tế bào của chính cơ thể mình.

Sự 'thải loại' diễn ra khi các tế bào miễn dịch của cơ thể nhận ra quả tim được ghép kia có sự khác biệt so với những phần còn lại của cơ thể và ra sức phá hủy nó. Nếu thuận lợi, hệ miễn dịch sẽ tấn công các tế bào của quả tim mới và thậm chí phá hủy nó.

Để ngăn ngừa sự 'thải loại' này, bệnh nhân phải dùng tới một số loại thuốc được gọi là thuốc ức chế miễn dịch (immunosuppressants).

Những loại thuốc này giúp ngăn ngừa bảo vệ quả tim mới khỏi sự phá hủy của hệ miễn dịch.

Sự thải loại này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào sau khi ghép, vì vậy những thuốc này phải đưa cho bệnh nhân trước khi tiến hành cấy ghép và tiếp tục dùng sau đó.

Để tránh bị thải loại, bệnh nhân cần phải tuân thủ nghiêm ngặt chế độ dùng các loại thuốc này. Các nhà nghiên cứu đang tiếp tục làm hoàn thiện hơn tính năng của các loại thuốc này.

Tuy nhiên, nếu dùng quá nhiều có thể sẽ dẫn đến các nhiễm trùng nghiêm trọng.

Chẩn đoán ghép tim

Chẩn đoán ghép tim

Ai cần ghép tim?

Những người bị suy tim giai đoạn cuối nhưng các phần khác vẫn khỏe mạnh và hoạt động bình thường thì có thể nghĩ tới ghép tim.

Dưới đây là một số câu hỏi cần thiết cho bạn, bác sĩ của bạn hay gia đình bạn trước khi quyết định có ghép tim hay không:

Bạn đã thử tất cả các phương thức khác?

Bạn có sẵn sàng chết nếu không được ghép tim?

Sức khỏe của bạn có tốt ngoại trừ các vấn đề về tim hay phổi?

Bạn có chấp nhận những thay đổi về lối sống, kể cả việc điều trị thuốc phức tạp và các cuộc kiểm tra thường xuyên và bắt buộc sau khi ghép?

Nếu bạn trả lời 'không' với bất kỳ câu hỏi nào ở trên thì việc ghép tim có thể không nên tiến hành. Thêm vào đó, nếu hiện tại bạn đang gặp các vấn đề khác về sức khỏe như một số bệnh nghiêm trọng, các bệnh nhiễm trùng hay béo phì thì rất có thể bạn sẽ nằm ngoài diện được phép ghép tim.

Trước khi tiến hành ghép tim

Ghép tim được diễn ra lần lượt theo một trình tự chi tiết và cẩn thận. Trước hết, bạn phải được kiểm tra kỹ lưỡng. Đội ngũ bác sĩ, y tá và những người phục vụ sẽ đảm trách công việc này.

Từ những kết quả xét nghiệm và tiền sử bệnh tật của bạn, họ có thể thấy rằng bạn có thể vượt qua được quá trình này không và sau đó tiến hành các phương thức chăm sóc cần thiết để bạn có được một cuộc sống khỏe mạnh, lâu dài tiếp theo.

Sau khi được kiểm tra kỹ lưỡng và quyết định ghép tim, bệnh nhân cần sự sẵn sàng từ phía người cho tim. Quá trình này kéo dài khá lâu và vô cùng căng thẳng.

Lúc này bệnh nhân rất cần sự hỗ trợ của các bác sĩ, gia đình và bạn bè để có thể kiểm soát cơn suy tim của bệnh nhân.

Điều trị bệnh nhân ghép tim

Điều trị bệnh nhân ghép tim

Người cho tim ở đây là những người mới chết hoặc não bộ của họ không còn hoạt động.

Phần lớn các trường hợp người cho ở đây là những người bị chết vì tai nạn, bị thương ở đầu hay do bị bắn chết… Họ đồng ý hiến tặng tim trước khi chết, tất nhiên phải được sự đồng ý của gia đình họ.

Khi một trái tim đồng ý được cho để cấy ghép thì nó được cấy cho bệnh nhân phù hợp nhất dựa vào mẫu máu, kích cỡ cơ thể và cả quãng thời gian người bệnh phải chờ đợi. Tất cả những người cho tim đều được kiểm tra viêm gan B, C và virus gây suy giảm miễn dịch ở người (HIV).

Thật không may là lượng tim cho không thể đủ để cung cấp cho các ca ghép. Có bệnh nhân phải đợi nhiều tháng trời và có hơn 25% trong số đó đã không thể chịu nổi và chết.

Cũng có nhiều người trong quá trình đợi ghép tim lại bị xáo trộn tinh thần bởi họ nghĩ rằng ai đó đã chết để cho tim mình.

Quá trình ghép tim diễn ra như thế nào?

Khi tim của người cho đã sẵn sàng thì một cuộc phẫu thuật được tiến hành với người cho tim. Quả tim được lấy ra sẽ được làm lạnh và bảo quản đặc biệt trong thời gian chờ ghép cho người nhận.

Quá trình phẫu thuật sẽ phải đảm bảo quả tim được lấy ra an toàn và cẩn trọng từ cơ thể người cho và phải được bảo quản trong điều kiện tốt nhất trước khi ghép. Sau đó quá trình phẫu thuật sẽ được tiến hành trong thời gian nhanh nhất có thể.

Trong suốt quá trình tiến hành, bệnh nhân được thay thế bằng tim phổi nhân tạo. Dụng cụ này giúp cơ thể nhận ôxy và các chất dinh dưỡng từ máu ngay cả khi tim đang được phẫu thuật.

Các bác sĩ sẽ lấy tim cũ của bệnh nhân ra ngoại trừ vách ngăn phía sau của tâm nhĩ và buồng phía trên của tim. Phần phía sau của tâm nhĩ của quả tim mới sẽ được mở ra và tim được khâu ngay vào.

Sau đó các mạch máu được kết nối giúp máu lưu thông qua tim và phổi. Khi tim được làm ấm lên, nó bắt đầu đập. Lúc này các bác sĩ sẽ phải kiểm tra tất cả các mạch máu đã được kết nối chưa và buồng tim có bị rò rỉ trước khi thay thế tim nhân tạo.

Quá trình này vô cùng tinh vi và phức tạp, thông thường mất khoảng từ 4 đến 10 tiếng đồng hồ.

Nếu không có dấu hiệu gì phản ứng tức thì lại quá trình ghép tim mới thì bệnh nhân có thể về nhà sau 1-16 ngày.

Thuốc

Sau khi phẫu thuật ghép tim, bệnh nhân phải dùng đến một số loại thuốc. Quan trọng nhất là phải giữ cho mình không 'thải loại' quả tim mới. Rất nhiều bệnh nhân được tái sinh và kéo dài tuổi thọ sau phẫu thuật.

Tất cả các loại thuốc này có thể sẽ gây nhiều tác dụng phụ như tăng huyết áp, tóc mọc nhiều, loãng xương và suy thận. Để tránh những hạn chế này, thuốc thường phải được dùng theo đúng quy định.

Chế độ chăm sóc bệnh nhân ghép tim

Chế độ chăm sóc bệnh nhân ghép tim

Bệnh nhân phải được theo dõi cẩn thận các dấu hiệu của sự thải loại.

Bác sĩ thường xuyên lấy các mẫu nhỏ từ quả tim mới để soi dưới kính hiển vi. Gọi là sinh thiết bởi quá trình này liên quan tới việc dùng một ống nhỏ trong y học gọi là ống thông qua một tĩnh mạch để tới tim. Phía cuối của ống thông là một kẹp sinh thiết, một dụng cụ nhỏ để lấy các mảnh mô.

Nếu sinh thiết cho thấy các tế bào đang bị hư hại thì liều lượng của các thuốc kháng chống miễn nhiễm có thể sẽ được thay đổi lại. Các sinh thiết về cơ tim thường được thực hiện hàng tuần trong 3-6 tuần đầu sau phẫu thuật, sau đó tiến hành hàng tháng trong năm đầu tiên và định kỳ hàng năm trong thời gian sau đó.

Bạn cần phải biết được các dấu hiệu biểu hiện nhiễm trùng hay thải loại để có thể phản ánh tới bác sĩ và có phương thức điều trị kịp thời.

Các dấu hiệu biểu hiện bao gồm:

Nhiệt độ cơ thể trên 38 độ C

Các triệu chứng tương tự cảm cúm như: ớn lạnh, nhức mỏi, đau đầu, chóng mặt, buồn nôn và nôn mửa.

Khó thở

Đau ngực hoặc tức ngực

Mệt mỏi hoặc có cảm giác bức bối

Huyết áp tăng cao

Theo dõi sự nhiễm trùng

Nếu dùng quá nhiều thuốc ức chế miễn dịch, hệ miễn dịch có thể không còn nhanh nhạy và lúc này bệnh nhân dễ dàng mắc nhiễm trùng. Bệnh nhân cần phải theo dõi để thông báo với bác sĩ.

Các dấu hiệu nhiễm trùng như sau:

Sốt trên 38 độ C.

Đổ mồ hôi hoặc ớn lạnh.

Nổi mẩn trên da.

Đau, bứt rứt, đỏ hoặc sưng.

Bị thương hay cắt mà không thấy đau.

Nóng, đỏ và khô họng.

Đau họng, họng sưng hoặc đau khi nuốt.

Chảy nước mũi, nghẹt mũi, đau đầu hoặc đau dọc theo phía trên xương gò má.

Thấy khô hay ho kéo dài hơn 2 ngày.

Thấy lưỡi và miệng có lớp trắng.

Buồn nôn hoặc tiêu chảy.

Có các triệu chứng giống cúm như ớn lạnh, nhức mỏi, đau đầu hay mệt mỏi, tóm lại là thấy bứt rứt trong người.

Đi tiểu bất thường: Đau buốt hoặc đi tiểu nhiều.

Nước tiểu đục, có máu hoặc có mùi hôi.

Nếu bạn có bất kỳ trong số các dấu hiệu trên thì phải gặp bác sĩ ngay lập tức.

Chế độ chăm sóc sau khi ghép tim.

Tập luyện

Bệnh nhân sau ghép tim cần luyện tập thể dục để cải thiện chức năng của tim và tránh béo phì. Tuy nhiên vì một số thay đổi liên quan từ việc ghép tim nên bệnh nhân cần phải tham khảo ý kiến bác sĩ về chương trình tập luyện của mình trước khi tiến hành tập luyện.

Bởi lẽ các dây thần kinh dẫn tới tim bị cắt ngưng trong suốt quá trình phẫu thuật và quả tim sau khi ghép sẽ đập nhanh hơn (khoảng 100-110 nhịp/phút) trong khi nhịp đập của quả tim bình thường chỉ khoảng 70 nhịp/phút. Quả tim mới cũng thích ứng chậm hơn với các bài tập, không nhanh nhạy như bình thường.

Ăn uống

Sau khi phẫu thuật, bệnh nhân phải tuân theo chế độ ăn kiêng đặc biệt trong đó có rất nhiều sự thay đổi so với trước khi phẫu thuật. Ăn ít chất béo và ít natri sẽ giúp làm giảm các nguy cơ về tim cũng như tăng huyết áp. Các bác sĩ sẽ gợi ý chế độ ăn hợp lý cho bệnh nhân.

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Bệnh nướu là gì? Bệnh nướu là tình trạng viêm của nướu, có thể tiến triển làm ảnh hưởng tới phần xương bao quanh và nâng đỡ răng. Nguyên nhân của bệnh là do các vi khuẩn trong mảng bám – đây là một lớp màng không màu, dính được hình thành liên tục
  • 17-10-2018

    Nhiễm khuẩn sau sinh (nhiễm khuẩn hậu sản) là nhiễm khuẩn xảy ra ở sản phụ sau đẻ. Đây là loại tai biến hay gặp nhất trong sản khoa, thường do vi khuẩn ở bộ phận sinh dục gây nên. Hiện nay, nhờ áp dụng các phương pháp vô khuẩn và khử khuẩn trong ca sinh

  • 28-05-2018
    Ngày nay, những tiến bộ về y học và những biện pháp phòng ngừa, chăm sóc sức răng miệng đã được áp dụng rộng rãi, nhưng bệnh sâu răng vẫn còn phổ biến và số người mắc bệnh vẫn chiếm tỉ lệ khá cao trong dân số. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam có
  • 28-05-2018
    Phù mạch, hay mề đay phù mạch, là bệnh có hiện tượng tương tự như phát ban (nổi mề đay), nhưng xảy ra ở sâu trong da. Phát ban là khi da bị nổi những nốt sưng đỏ, gây ngứa và khó chịu. Bệnh phù mạch cũng có những triệu chứng tương tự nhưng các nốt sưng
  • 28-05-2018
    Táo bón, hay còn gọi là bón, là tình trạng đại tiện khó hơn bình thường và khoảng cách giữa các lần đại tiện kéo dài hơn bình thường. Mỗi người có thói quen đại tiện khác nhau, không nhất thiết phải có quy định chung cho thói quen này. Táo bón được tính
  • 28-05-2018
    Viêm tiểu phế quản là một bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp phổ biến ở trẻ nhũ nhi và trẻ nhỏ. Bệnh gây tắc nghẽn các đường dẫn khí nhỏ (tiểu phế quản) tại phổi. Viêm tiểu phế quản hầu như chỉ do virus (siêu vi, vi-rút) gây ra và mùa đông là mùa cao điểm của