Bệnh dại

Giai đoạn gây nhiễm của bệnh dại: Virus dại xâm nhập vào cơ thể người từ động vật bị dại qua vết cắn, vết xước, vết liếm trên lớp da, niêm mạc bị tổn thương. Ở một số súc vật ăn thịt, trong nước bọt của chúng có nhiều enzym hyaluronidaze là yếu tố có thể giúp cho virus...

Bệnh dại là gì?

Giai đoạn gây nhiễm

Virus dại xâm nhập vào cơ thể người từ động vật bị dại qua vết cắn, vết xước, vết liếm trên lớp da, niêm mạc bị tổn thương. Ở một số súc vật ăn thịt, trong nước bọt của chúng có nhiều enzym hyaluronidaze là yếu tố có thể giúp cho virus dại lan toả nhanh hơn tới hệ thần kinh.
Là một virus ái thần kinh, sau khi xâm nhập nó tồn tại, nhân lên tại vết thương từ vài giờ cho tới vài tuần. Sau đó nhanh chóng đi tới các đầu mút thần kinh cảm giác và vận động của hệ thần kinh ngoại biên rồi chuyển tới hệ thần kinh trung ương.
Vì thế virus dại chỉ tiếp xúc thoáng qua với hệ miễn dịch, mặc dù gần đây có công trình cho rằng sự âm hoá virus dại khỏi hệ thần kinh qua kháng thể trung gian là có thể xảy ra.
Khi đã có mặt ở trong nơron của hệ thần kinh ngoại biên, virus được vận chuyển trong acxon bằng dòng phản hồi của tế bào sợi acxon với tốc độ 0,3mm/giờ tới hệ thần kinh trung ương, nơi nó tiếp tục được nhân lên.
Phần cuống não bị nhiễm trước tiên, sau đó tới vùng dưới đồi và cuối cùng đến phần vỏ não bị tổn thương. Tuy nhiên, vào giai đoạn nhiễm cuối thì toàn bộ hệ thần kinh trung ương cũng như một số mô ngoài như tuyến nước bọt cũng bị nhiễm virus, nhưng cơ chế nhân lên cũng bắt đầu vào thời điểm nào thì chưa rõ.
Khi xâm nhập và nhân lên trong tế bào thần kinh, virus dại gây tổn thương não tuỷ ở các mức độ nặng nhẹ mà biểu hiện lâm sàng sẽ khác nhau.

(Ảnh minh họa)

Giai đoạn ủ bệnh

Thời kỳ ủ bệnh tương ứng với sự di chuyển và nhân lên của virus. Thời gian này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào quãng đường phải đi qua từ nơi vết cắn đến thần kinh trung ương.
Thời gian ủ bệnh trung bình là 30 - 90 ngày (80% trường hợp), có những trường hợp nhanh dưới 20 ngày (5 - 10% trường hợp) hoặc chậm hơn 3 tháng (7 - 20% trường hợp). Thậm chí kéo dài hơn cả năm (1,8% trường hợp). Thời gian ủ bệnh ngắn nhất được tìm thấy khi vết cắn ở đầu, mặt, tay và đặc biệt là đối với trẻ em.

Thời gian phát bệnh dại là bao lâu?

  • Thời gian phát bệnh dại phụ thuộc vào tình trạng nặng nhẹ của vết cắn, vị trí của vết cắn có liên quan đến nơi có nhiều dây thần kinh, khoảng cách từ vết cắn đến não, số lượng vi-rút xâm nhập.
  •  Vết cắn càng nặng và gần thần kinh trung ương thì thời gian ủ bệnh càng ngắn. Thời kỳ lây truyền ở chó nhà là từ 3-7 ngày (tối đa là 10 ngày) trước khi chó có triệu chứng dại và trong suốt thời gian phát bệnh dại.
  •  Ở người, vi-rút đào thải qua các chất tiết (nước bọt, nước mắt, nước tiểu…) của người bệnh trong suốt thời gian phát bệnh. Tuy nhiên, khả năng lây truyền từ người sang người là vô cùng hiếm gặp.

Triệu chứng và biểu hiện của bệnh dại

Triệu chứng tiền lâm sàng

Những dấu hiệu này lan rộng dọc theo hệ thần kinh và hệ bạch huyết. Đồng thời với các triệu chứng trên còn có một số triệu chứng khác kèm theo: bồn chồn, thổn thức, la hét, chán nản vô cớ.

Triệu chứng lâm sàng

* Thể co thắt:

Đây là thể thường gặp nhất. Đặc điểm là co cứng, co thắt, co giật, run các cơ kể cả cơ ở mặt. Co thắt hô hấp và co thắt thanh quản là biểu hiện tổn thương hành tủy. Triệu chứng đặc trưng của bệnh là nhân lên cơn dại:

  • Sợ nước: bệnh nhân thường rất khát nhưng khi uống nước họ bị co thắt lồng ngực, bị ức chế thở và run cầm cập. Trạng thái này qua mau nhưng để lại ấn tượng kéo dài cho bệnh nhân, vì vậy họ không thiết uống nước mặc dù rất khát. Từ đó dẫn đến chỉ cần nhìn thấy ly nước hoặc nghe tiếng nước chảy cũng sợ.
  • Sợ gió, sợ ánh sáng được mô tả tương tự. Tính cách bệnh nhân không bình thường, bệnh nhân bị phấn khích quá độ khi bị kích thích. Không phát hiện dấu hiệu mất tri thức.

Những cơn co thắt đầu tiên còn xa nhau, càng ngày càng mau và thường tử vong sau 3 - 4 ngày do ngất hoặc ngạt trong một cơn co thắt sợ nước hoặc sau một cơn hôn mê.

* Thể liệt

Thể này hiếm gặp và kém điển hình hơn.Không có dấu hiệu phấn khích quá độ. Bệnh xuất hiện rất nhanh sau giai đoạn co thắt, run. Liệt có thể tiên phát và bắt đầu bằng liệt 1 chi hoặc 2 chi dưới rồi lan lên trên (hội chứng Landry) hoặc xuống dưới. Tử vong thường do ngạt hoặc ngất vào ngày thứ 4. Diễn biến bệnh không quá 4 - 10 ngày.

* Thể cuồng

Bệnh nhân bị kích thích quá độ, có những phản ứng dữ tợn, người bệnh trở lên hung bạo. Vì vậy, bệnh nhân thường có những hành vi không bình thường như chống lại y lệnh của bác sĩ và những người quanh mình. Thể trạng suy sụp nhanh, hôn mê, ngất và chết.

Nguyên nhân bệnh dại

Bệnh dại được đánh giá là bệnh truyền nhiễm gây chết người kinh sợ nhất của loài người. Chính vì vậy, bệnh dại được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) xếp vào hạng thứ 12 trong các bệnh truyền nhiễm gây tử vong. Đây là một bệnh nguy hiểm nhưng hoàn toàn có thể chủ động phòng tránh được, chỉ có phương pháp tiêm phòng sớm, đúng mới mong cứu sống được người bệnh. Đến nay, bệnh dại vẫn là bệnh không thể chữa khỏi một khi đã phát bệnh. Hàng năm, trên toàn thế giới có khoảng 30.000 - 50.000 người tử vong vì bệnh dại. Tại Việt Nam, mỗi năm có hàng trăm người tử vong do bệnh dại. 

Nguyên nhân bệnh dại ở người chủ yếu lây qua vết cắn từ các con vật nuôi sang như: chó, mèo… hoặc cũng có thể là các loài động vật hoang dã như: dơi, sói, cầy… Vi-rút dại được truyền trực tiếp từ chó dại sang chó khỏe và người qua nước bọt tại vết cắn. Tỷ lệ mắc bệnh ở người tùy thuộc vào tỷ lệ mắc bệnh ở súc vật.

Bệnh dại vẫn là bệnh không thể chữa khỏi một khi đã phát bệnh.

Vi-rút bệnh dại có nhiều trong nước bọt của thú mang bệnh dại. Qua vết cắn, thú liếm vết thương của người hoặc con vật khác, vi-rút sẽ xâm nhập vào cơ thể, nhân lên và hướng tới hệ thần kinh, phá huỷ mô thần kinh, gây nên những kích động điên dại và dẫn đến tử vong.
Nếu ở vùng có dịch bệnh dại, các chất thải như nước dãi, nước tiểu… của động vật bị bệnh dại chứa hàm lượng vi-rút cao cũng là nguyên nhân bệnh dại do lây nhiễm với các động vật đã có vết thương hở. Đặc biệt, vi-rút dại đã có trong nước bọt của chó, mèo từ 10 - 15 ngày trước khi con vật phát bệnh, vì vậy tại thời điểm này nếu người bị chó, mèo cắn, liếm hoặc tiếp xúc trực tiếp với con vật thì người rất dễ bị lây nhiễm vi-rút dại, tuy nhiên do con vật chưa có triệu chứng lâm sàng nên người dễ bỏ qua mà không chú ý đề phòng.

Cách phòng tránh bệnh dại

  • Người dân hạn chế nuôi chó, mèo, nếu nuôi phải tiêm phòng bệnh dại định kỳ theo hướng dẫn của thú y, phải nuôi nhốt không được thả rông, không cho trẻ đùa nghịch với chó, mèo, đặc biệt là khi chúng đang ăn.
  • Tiêm vắc-xin phòng bệnh dại, yêu cầu phải tuân thủ: Tiêm đủ mũi, đúng lịch, không uống rượu bia, không dùng thuốc Corticoid và thuốc ức chế miễn dịch.
  • Theo dõi tình trạng con vật sau khi cắn người trong vòng 2 tuần (ốm, chết, lên cơn dại…) để có hướng xử lý tiếp theo.
  • Không tiếp xúc với con vật bị dại, nghi dại; không mua bán, vận chuyển chó mèo ra, vào vùng dịch.
  • Báo ngay cho chính quyền, cơ quan thú y tại địa phương để có biện pháp tiêu hủy chó mèo bị dại; cách ly theo dõi động vật nghi dại; tiêm phòng dại cho động vật khỏe mạnh sống trong vùng dịch.

Để không mắc bệnh dại, mọi người nên có hiểu biết về nguyên nhân bệnh dại, hình thức lây truyền bệnh để có cách phòng ngừa hiệu quả.

Điều trị bệnh dại

Bệnh dại rất nguy hiểm bởi hiện nay y học vẫn chưa có phương pháp điều trị đặc biệt nào một khi đã phát bệnh. Hầu như không thể làm được gì ngoài việc giữ cho bệnh nhân cảm thấy thoải mái, giảm đau đớn và lo lắng bồn chồn. Bệnh dại do vi-rút dại cổ điển gần như gây tử vong 100% trên người, hiện nay bệnh dại chưa có thuốc điều trị đặc hiệu.

Để tránh lây nhiễm, cần lưu ý:

  • Người chăm sóc bệnh nhân cần sử dụng thiết bị phòng hộ cá nhân để tránh xa vết cắn hoặc nước bọt nhiễm bệnh từ màng nhầy và vết thương.
  • Bệnh nhân cần được điều trị trong một căn phòng yên tĩnh với ánh sáng dịu và tránh các tác nhân kích thích (ví dụ như tiếng ồn lớn, không khí lạnh) vì chúng có thể làm tăng nguy cơ co thắt và co giật.
  • Bệnh nhân cần được uống thuốc an thần diazepam 10mg 4 - 6 giờ một lần, bổ sung thêm chlorpromazine 50-100mg, hoặc tiêm morphine vào tĩnh mạch nếu cần thiết sẽ giúp kiểm soát được các cơn co thắt cơ và hiện tượng dễ bị kích thích.
  • Bệnh nhân cần phải truyền dịch tĩnh mạch vì bệnh nhân thường không ăn được qua đường miệng.

Phòng ngừa bệnh dại

  • Người nuôi, buôn bán, giết mổ, vận chuyển kinh doanh chó, mèo cần thực hiện "5 không":
    • Không nuôi chó, mèo chưa khai báo với chính quyền địa phương.
    • Không nuôi chó, mèo chưa tiêm phòng bệnh dại.
    • Không nuôi chó mèo thả rông ra ngoài nhà.
    • Không cho trẻ chơi với chó mèo và cắn người.
    • Không nuôi chó, mèo gây ô nhiễm môi trường.
  • Trách nhiệm người nuôi chó :
    • Phải đăng ký số lượng chó nuôi với Trưởng ấp (trưởng thôn) hoặc Tổ trưởng dân phố.
    • Tiêm phòng dại định kỳ hàng năm của cơ quan thú y.
  • Thời điểm tiêm phòng:
    • Tiêm lần đầu cho chó con được 4 tuần tuổi.
    • Nếu chó con được sinh ra từ chó mẹ đã được tiêm phòng thì tiêm cho chó con vào lúc chó được 3 tháng tuổi và sau đó tiêm nhắc lại mỗi năm một lần.
  • Phải thường xuyên xích chó, nuôi chó trong nhà, không được thả rông ngoài đường. Ở thành phố, thị trấn, khu dân cư khi dắt chó ra nơi công cộng phải có dây xích, phải rọ mõm và có người dắt, không để chó đi lang thang ngoài đường, phố làm mất vệ sinh nơi công cộng.
  • Mỗi hộ gia đình chỉ nên nuôi 1 - 2 con chó để giữ nhà. Trong trường hợp nuôi nhiều (trên 5 con không kể chó mới sinh) phải có tờ trình về điều kiện nuôi và được cơ quan thú y địa phương xác nhận đủ điều kiện vệ sinh thú y.
  • Vệ sinh sạch sẽ chuồng nuôi.
  • Khi phát hiện chó, mèo có những biểu hiện bất thường, bỏ ăn hoặc ăn ít, sốt cao, hung dữ khác thường thì báo ngay cho nhân viên thú y cấp xã.

Theo Sức khỏe & Đời sống

- 17-10-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Viêm loét đau miệng, còn được gọi là loét aphthous, tổn thương nhỏ, nông phát triển trên các mô mềm trong miệng và tại nướu răng. Không giống như các vết loét lạnh, viêm loét đau miệng không xảy ra trên bề mặt đôi môi và không truyền nhiễm. Có thể rất
  • 28-05-2018
    Nhiễm sắc thể (NST) là những cấu trúc chứa gen nằm bên trong tế bào. Mỗi tinh trùng của người nam và mỗi trứng của người nữ gồm có 23 NST, những tế bào khác trong cơ thể gồm có 46 NST. Khi trứng được thụ tinh với tinh trùng, thì 23 NST từ trứng của mẹ
  • 28-05-2018
    Bệnh U Lymphô, còn gọi là ung thư hạch. Đây là bệnh lý ung thư của hệ lymphô tức là hệ bạch huyết. Hệ bạch huyết thuộc hệ tuần hoàn và là một phần của hệ miễn dịch nên có nhiệm vụ vừa chống lại các bệnh nhiễm trùng vừa cân bằng lượng dịch trong cơ thể.
  • 05-09-2018

    Hầu hết các trường hợp sưng hạch bạch huyết ở trẻ nhỏ không quá nghiêm trọng, chúng sẽ trở lại kích thước như cũ sau khi nguyên nhân gây sưng đã hết.

  • 07-01-2019

    Nứt hậu môn là bệnh được đặc trưng bởi một vết loét nông giống như một vết rách nằm ở ống và rìa ống hậu môn. Bệnh được Edouard Quesnu mô tả từ năm 1895. 

  • 28-05-2018
    Mất trí nhớ, hay còn được gọi là hội chứng mất trí nhớ, là một tình trạng gây ra sự mất đi trí nhớ bao gồm sự mất đi của thông tin, sự kiện và những trải nghiệm cá nhân. Có rất nhiều tình trạng bệnh lý gây ra mất trí nhớ như suy giảm trí tuệ, đột quỵ