Ung thư vú nguyên phát

Sự lan rộng của ổ ung thư nguyên phát trong tuyến vú xảy ra bằng cách xâm lấn trực tiếp vào nhu mô vú, dọc theo các ống tuyến vú và theo đường bạch huyết. Xâm nhập trực tiếp của ung thư thường xảy ra bằng cách phân nhánh, điều này dẫn đến hình ảnh có hình sao đặc trưng trên đại thể và trên phim X-quang vú.

Sự lan rộng của ổ ung thư nguyên phát trong tuyến vú xảy ra bằng cách xâm lấn trực tiếp vào nhu mô vú, dọc theo các ống tuyến vú và theo đường bạch huyết. Xâm nhập trực tiếp của ung thư thường xảy ra bằng cách phân nhánh, điều này dẫn đến hình ảnh có hình sao đặc trưng trên đại thể và trên phim X-quang vú. Nếu không điều trị, u sẽ xâm nhập trực tiếp vào lớp da ở trên và gây tổn thương dọc các ống thường thấy và có thể gây tổn thương toàn bộ vú.

Ung thư nguyên phát ở vú
Ung thư nguyên phát ở vú. (Ảnh minh họa)

Sự lan rộng cũng có thể xảy ra theo mạng lưới dày đặc các mạch bạch huyết của vú. Các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh sự lan rộng theo đường bạch huyết giảm theo chiều thẳng đứng ở đám rối bạch huyết cân cơ ngực sâu dưới vú. Ngoài ra, sự lan rộng vào vùng quầng vú trung tâm cũng đã được mô tả. Vị trí nguyên phát của ung thư vú thường được mô tả theo các phần tư của vú. Trong một nghiên cứu trên 696 trường hợp mắc ung thư vú cho thấy: 48% nằm ở 1/4 trên ngoài, 15% ở 1/4 trên trong, 11% ở 1/4 dưới ngoài, 6% ở 1/4 dưới trong và 17% ở vùng trung tâm. 3% khác được gọi là lan toả do có nhiều ổ hoặc tổn thương quá lớn.

Lý do tần xuất bị ung thư vú ở 1/4 trên ngoài cao được giải thích đơn giản là lượng mô vú tăng ở góc 1/4 này. Người ta thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ sung thêm theo vị trí u. Mối quan hệ giữa vị trí u nguyên phát và tiên lượng cũng đã được xem xét trong một nhóm lớn bệnh nhân từ cuộc điều tra quốc gia năm 1978 của trường đào tạo các phẫu thuật viên Mỹ (American College of Surgeons).

Trong nghiên cứu của Hội ung thư quốc gia Hoa Kỳ (ACS), kết quả của 9401 bệnh nhân được xem xét về mối quan hệ giữa kích thước của u nguyên phát, vị trí của nó và tổn thương của hạch nách. Các bệnh nhân được điều trị bằng cắt vú toàn bộ không xạ trị. Sự phân bố về kích thước u ở các bệnh nhân có u ở giữa hoặc một bên là gần giống nhau.

Ung thư nguyên phát ở vú
Phim vú cho thấy có khối u lạ. (Ảnh minh họa)

Tuy nhiên, các bệnh nhân có u ở trung tâm và hạch âm tính có tiến triển xấu hơn so với các bệnh nhân có u ở phần bên vú và hạch âm tính (tỉ lệ tái phát của hai nhóm là 18% và 14%, P<O,O05). Kết quả của các bệnh nhân bị ung thư vú có hạch nách dương tính không khác biệt có ý nghĩa thống kê dựa trên vị trí u.

Các bệnh nhân có hạch dương tính có tiên lượng giống nhau bất kể vị trí u. Các kết quả từ nghiên cứu của ACS gợi ý rằng những bệnh nhân có u ở 1/2 trong của vú và hạch âm tính có tiên lượng xấu hơn các bệnh nhân có u ở 1/2 ngoài và hạch âm tính. Điều này hầu như có liên quan tới việc các hạch vú trong hay bị tổn thương hơn trong các trường hợp có u ở trung tâm.

Kích thước lâm sàng của u nguyên phát có quan hệ chặt chẽ với tiên lượng. Dữ liệu của Koscielny và cộng sự ở viện Gustave- Roussy đã minh họa cho quan điểm này. Họ đã xem xét mối quan hệ giữa kích thước u nguyên phát với khả năng di căn xa trên 2648 bệnh nhân bị ung thư vú được điều trị tại viện này từ năm 1954 đến năm 1972. Dữ liệu này được vẽ thành biểu đồ sử dụng hệ thống tọa độ xác xuất đã chỉ ra mối quan hệ trực tiếp giữa kích thước u và khả năng di căn: Khối u càng lớn thì khả năng di căn càng cao.

Kết quả nghiên cứu của trường đại học Chicago cũng cho thấy cả độ ác tính và khả năng di căn đều tăng theo kích thước u và tổn thương hạch.

Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu

Bệnh viện Bạch Mai

- 13-06-2018 -