Nguy cơ suy dinh dưỡng ở trẻ mắc hội chứng kém hấp thu

Hội chứng kém hấp thu là tình trạng cơ thể thất bại trong việc hấp thu các chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất từ thực phẩm.

Hội chứng kém hấp thu là tình trạng cơ thể thất bại trong việc hấp thu các chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất từ thực phẩm.

Hội chứng kém hấp thu là gì?

Hội chứng kém hấp thu bao gồm một số các rối loạn trong đó các chất dinh dưỡng không được hấp thu thật sự và tối đa trong quá trình tiêu hóa, dẫn tới sự thiếu hụt của các thành phần đa lượng (protein, carbohydrate và chất béo) và các thành phần vi lượng (vitamin và khoáng chất). Hội chứng này có thể gây ra nguy cơ suy dinh dưỡng ở trẻ em. 

Nguyên nhân gây ra hội chứng kém hấp thu

Protein, carbohydrate, chất béo và phần lớn các chất lỏng được hấp thu ở ruột non. Hội chứng kém hấp thu xảy ra khi một yếu tố nào đó cản trở ruột hấp thu một cách trọn vẹn các chất dinh dưỡng quan trọng này. Nguyên nhân có thể là do bản thân trẻ đang bị mắc một căn bệnh viêm nhiễm nào đó, hoặc tổn thương ở bên trong thành ruột. Đôi khi hội chứng này là hậu quả của việc cơ thể không sản xuất đủ các enzyme cần thiết cho quá trình tiêu hóa thức ăn.

Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc tiêu hóa thức ăn và gây hội chứng kém hấp thu bao gồm:

  • Sử dụng kháng sinh kéo dài;
  • Mắc một số bệnh như bệnh Celiac, bệnh Crohn, viêm tụy mãn tính hoặc xơ nang;
  • Thiếu lactase hay không dung nạp lactose, đây là căn bệnh khá phổ biến ở những người châu Á, châu Phi và xảy ra khi cơ thể thiếu enzyme cần thiết để tiêu hóa lactose -  một loại đường sữa;
  • Dị tật bẩm sinh như bệnh hẹp đường mật, trong đó các ống dẫn mật không phát triển bình thường và bị tắc, ngăn cản dòng chảy của mật từ gan;
  • Các bệnh của túi mật, gan, tuyến tụy;
  • Tổn thương tại ruột (do viêm nhiễm, chấn thương hay phẫu thuật);
  • Các bệnh do ký sinh trùng;
  • Xạ trị (có thể gây tổn thương niêm mạc ruột).

(Ảnh minh họa)

Một số nguyên nhân ít phổ biến hơn có thể gây kém hấp thu, ví dụ như chứng ruột ngắn. Đây có thể là hội chứng bẩm sinh hoặc do phẫu thuật cắt bớt ruột khiến cho diện tích bề mặt đường ruột thu hẹp lại và làm giảm khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng.

Một nguyên nhân khác có thể dẫn tới chứng kém hấp thu là căn bệnh tiêu chảy mỡ nhiệt đới (tropical sprue). Bệnh này phổ biến nhất ở khu vực Đông Nam Á, vùng Caribbe và Ấn Độ. Các triệu chứng có thể bao gồm thiếu máu, tiêu chảy, đau lưỡi và sút cân. Bệnh này có thể có liên quan đến các yếu tố môi trường như ngộ độc thực phẩm, các bệnh nhiễm trùng hay nhiễm ký sinh trùng.

Một nguyên nhân hiếm gặp hơn đó là bệnh Whipple, chủ yếu ảnh hưởng đến nam giới tuổi trung niên. Đây là căn bệnh do nhiễm phải loại vi khuẩn Tropheryma whippleii với triệu chứng chính là đau quặn bụng. Các triệu chứng khác gồm:

  • Sốt mãn tính;
  • Tăng các sắc tố sẫm màu trên da;
  • Tiêu chảy
  • Đau khớp;
  • Sút cân.

Nhận biết các triệu chứng của hội chứng kém hấp thu

Các triệu chứng của hội chứng kém hấp thu gây ra do sự thiếu hụt các thành phần dinh dưỡng trong cơ thể:

  • Nếu thiếu chất béo, trẻ sẽ đi ngoài ra phân mềm, sáng màu, mùi hôi. Phân khó rửa trôi và trôi lơ lửng hoặc dính vào thành của bồn cầu.
  • Nếu thiếu protein, trẻ có thể xuất hiện tình trạng phù (giữ nước), khô tóc, rụng tóc.
  • Nếu thiếu vitamin, trẻ có thể bị thiếu máu, suy dinh dưỡng, huyết áp thấp, sút cân và teo cơ.

Trẻ mắc hội chứng kém hấp thu nên tránh một số loại thức ăn. Trẻ cũng không thể tăng trưởng một cách bình thường. Cân nặng và mức độ gia tăng cân nặng của trẻ thấp hơn đáng kể so với những trẻ em ở cùng độ tuổi và giới tính.

Các yếu tố nguy cơ gây hội chứng kém hấp thu

  • Tiêu thụ quá nhiều đồ uống có cồn;
  • Có tiền sử gia đình mắc bệnh xơ nang hoặc kém hấp thu;
  • Phẫu thuật ruột;
  • Sử dụng một số loại thuốc như thuốc nhuận tràng hay dầu khoáng;
  • Đi du lịch tới một số vùng ở khu vực Đông Nam Á, Caribbe, Ấn Độ.

Chẩn đoán hội chứng kém hấp thu

Bác sĩ có thể nghi ngờ bệnh nhân mắc hội chứng kém hấp thu nếu bệnh nhân có biểu hiện: tiêu chảy kéo dài, thiếu hụt các chất dinh dưỡng hoặc sút cân đáng kể mặc dù chế độ ăn vẫn đầy đủ. 

Các xét nghiệm có thể giúp xác nhận chẩn đoán bao gồm:

Xét nghiệm mẫu phân

Xét nghiệm mẫu phân kiểm tra lượng chất béo có trong phân. Đây là xét nghiệm tin cậy nhất bởi sự hiện diện của chất béo trong phân là triệu chứng khá phổ biến của hội chứng này.

Xét nghiệm máu

Xét nghiệm này đánh giá mức độ kém hấp thu của một số vi chất nhất định như là vitamin B-12, vitamin D, folate, sắt, canxi, carotene, phosphor, albumin và protein. Tuy nhiên sự thiếu hụt của một trong số những vitamin này không có nghĩa là trẻ bị mắc hội chứng kém hấp thu.

Test hơi thở

Test hơi thở được sử dụng để đánh giá tình trạng không dung nạp lactose. Nếu lactose không được cơ thể hấp thu, các vi khuẩn trong đại tràng sẽ sử dụng lactose để sinh ra khí hydro. Bệnh nhân sau đó sẽ thở ra khí hydro. Sự hiện diện của khí hydro trong hơi thở sau khi tiêu hóa một thực phẩm nào đó có chứa lactose đồng nghĩa với việc người đó bị hội chứng không dung nạp lactose.

Sinh thiết

Phương pháp này được sử dụng nếu bác sỹ nghi ngờ một vị trí nào đó trong thành ruột có dấu hiệu bất thường.

Điều trị hội chứng kém hấp thu

Bổ sung các chất dinh dưỡng là bước đầu tiên trong việc điều trị hội chứng kém hấp thu. Các phương pháp điều trị đặc hiệu khác sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân gây bệnh. Ví dụ, nếu con bạn được chẩn đoán mắc hội chứng không dung nạp lactose, bạn nên tránh cho trẻ sử dụng các loại sữa và sản phẩm từ bơ sữa hoặc cho trẻ sử dụng viên uống chứa men lactase. Cho trẻ nhập viện điều trị trong những trường hợp nặng.

Nếu trẻ được chẩn đoán mắc hội chứng kém hấp thu, bạn nên tham khảo ý kiến của một chuyên gia dinh dưỡng để có những lời khuyên về một chế độ ăn bổ sung đủ các chất dinh dưỡng. Trẻ nên được ăn thành nhiều bữa nhỏ trong ngày và giàu carbohydrate, chất béo, chất khoáng, protein và vitamin. 

Ngoài ra, cha mẹ cần theo dõi trẻ để phát hiện kịp thời các dấu hiệu mất nước. Cần đưa trẻ đi khám hoặc Gọi thoại - Gọi video với bác sĩ chuyên khoa Nhi trên hệ thống khám từ xa Wellcare nếu trẻ xuất hiện các triệu chứng như hoa mắt, kiệt sức, khô miệng, khô da, khô lưỡi, tăng cảm giác khát và tiểu ít. 

Viện y học ứng dụng Việt Nam
Theo healthline

- 26-10-2018 -

Bài viết liên quan