Ung thư tuyến giáp

Ung thư tuyến giáp chiếm khoảng 1% các loại ung thư. Nó là ung thư tuyến nội tiết thường gặp nhất. Đa số ung thư tuyến giáp là ung thư biểu mô biệt hoá cao, tiến triển âm thầm, giai đoạn ẩn bệnh kéo dài, điều trị chính yếu là phẫu thuật. Đa số bệnh nhân

Tìm hiểu Ung thư tuyến giáp

Ung thư tuyến giáp chiếm khoảng 1% các loại ung thư. Nó là ung thư tuyến nội tiết thường gặp nhất. Đa số ung thư tuyến giáp là ung thư biểu mô biệt hoá cao, tiến triển âm thầm, giai đoạn ẩn bệnh kéo dài, điều trị chính yếu là phẫu thuật. Đa số bệnh nhân ung thư tuyến giáp có tiên lượng tốt nếu được chẩn đoán và điều trị sớm và tích cực.
Có 4 dạng ung thư tuyến giáp chính là: dạng nhú, dạng nang, dạng tuỷ và dạng không biệt hóa. Các bác sĩ có thể gọi tên dạng ung thư theo týp tế bào quan sát được trên kính hiển vi hoặc theo kiểu phát triển của khối u.
Ảnh minh họa
Ung thư dạng nhú phát triển từ các tế bào sản xuất các hoóc-môn tuyến giáp chứa i-ốt. Các tế bào ung thư phát triển rất chậm và tạo thành nhiều cấu trúc nhỏ hẹp hình nấm trong khối u. Các bác sĩ thường điều trị thành công các khối u này thậm chí ngay cả khi các tế bào u đã lan sang các hạch bạch huyết lân cận. Các khối u dạng nhú chiếm khoảng 80% toàn bộ các dạng ung thư tuyến giáp.
Các khối u dạng nang cũng phát triển từ các tế bào tạo hoóc-môn chứa i-ốt. Những khối u này có một lớp mô mỏng bao quanh được gọi là vỏ. Nhiều u dạng nang có thể được chữa khỏi. Tuy nhiên, bệnh có thể khó kiểm soát được nếu khối u xâm lấn vào mạch máu hoặc tăng trưởng xuyên qua vỏ sang các cấu trúc vùng cổ lân cận. Khoảng 17% ung thư tuyến giáp là các u dạng nang.
Các khối u dạng tuỷ ảnh hưởng các tế bào tuyến giáp sản xuất hoóc-môn không chứa i-ốt. Mặc dù những khối u này phát triển chậm nhưng chúng khó kiểm soát hơn so với các u dạng nang và dạng nhú. Các tế bào ung thư có xu thế lan sang các bộ phận khác của cơ thể. Chỉ có khoảng 5% các loại ung thư tuyến giáp là các khối u dạng tuỷ. Người ta dự đoán rằng cứ 10 người bị ung thư tuyến giáp dạng tuỷ thì có 1 người là do di truyền.
Các khối u không biệt hóa là loại tăng trưởng nhanh nhất trong tất cả các loại khối u tuyến giáp. Các tế bào ung thư, đặc biệt bất thường, lan rất nhanh sang các bộ phận khác của cơ thể. Các khối u không biệt hóa chiếm khoảng 15% trong tổng số ung thư tuyến giáp và thường xuất hiện ở những người trên 60 tuổi.

Triệu chứng của ung thư tuyến giáp

Triệu chứng của ung thư tuyến giáp

Ung thư tuyến giáp thường không có triệu chứng rõ ràng ngay từ ban đầu khi bệnh mới xuất hiện. Vì vậy, người bệnh sẽ rất khó nhận biết. Trong một số ít trường hợp, ung thư tuyến giáp có các triệu chứng đầu tiên là khối u thứ cấp trong xương hoặc phổi sau khi ung thư đã lan tràn ra ngoài tuyến giáp.
+ Đặc điểm chung triệu chứng ung thư tuyến giáp sớm:
Đại đa số ung thư tuyến giáp đều tiến triển âm thầm, chậm chạp và kéo dài nên bệnh nhân thường không nhận thấy được ngay những thay đổi của toàn thân, vẫn lao động và sinh hoạt bình thường cho đến khi xuất hiện những rối loạn tại chỗ do u chèn ép, xâm ấn (dây khó thở và không ăn uống được), khối u hoại tử, bội nhiễm và loét thì tình trạng toàn thân mới sa sút nặng.
Khối u: thường do bệnh nhân hay người nhà tình cờ phát hiện ra, u to ra dần, di động theo nhịp nuốt, có thể nằm ở bất cứ vị trí nào của tuyến giáp. Thường chỉ có 1 nhân đơn độc nhưng cũng có khi có nhiều nhân và nằm ở cả hai thùy tuyến giáp. Mật độ thường chắc, bề mặt thường gồ ghề.
Hạch cổ: có khi u chưa sờ thấy được nhưng đã có hạch ở cổ to. Tuy nhiên, những triệu chứng sớm này khó phân biệt với một bướu lành tính, do đó khi có hạch cổ kèm theo khối u với những tính chất như trên thì luôn phải cảnh giác và tìm biện pháp chuẩn đoán xác định ung thư sớm.
Ảnh minh họa
+ Các triệu chứng ung thư tuyến giáp muộn:
Khối u: có khi khá lớn, lấn ra phía trước, ra sau, lên hai cực trên sát hai góc hàm và xuống dưới vào trong trung thất (khám lâm sàng không sờ thấy được cực dưới của u).
Bề mặt thường gồ ghề, mật độ có chỗ cứng chắc có chỗ mềm. Đặc biệt, khối u đính chặt và xâm lấn vào các cơ quan vùng cổ nên ranh giới không rõ và khả năng di động kém, Có khi khối u xâm chiếm và loét sùi qua da vùng cổ, gây chảy máu và bội nhiễm tại chỗ.
Khàn tiếng, khó thở, khó nuốt, nuốt nghẹn… ở các mức độ khác nhau do khối u phát triển xâm lấn và chèn ép các cơ quan xung quanh. Các triệu chứng này gặp với tỉ lệ cao và sớm, nhất là ở ung thư thể không biệt hóa.
Cảm giác vướng tức, bó chặt ở vùng cổ: là triệu chứng ung thư tuyến giáp thường gặp, có khi cảm giác đau tức tại u lan lên góc hàm, mang tai cùng bên do u chèn ép và kích thích đám rối thần kinh cổ.
Hạch to ở vùng cổ (dọc hai bên khí quản, theo các bờ trong, ngoài và sau hai cơ ức đòn chũm, góc hàm, hố thượng đòn…).

Yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp

Yếu tố nguy cơ gây ung thư tuyến giáp

Các bác sĩ chưa biết nguyên nhân nào gây ra hầu hết các trường hợp ung thư tuyến giáp. Tuy nhiên, các nhà khoa học đã nhận ra rằng ung thư tuyến giáp xuất hiện ở phụ nữ nhiều hơn gấp 2-3 lần so với nam giới và thường gặp ở người da trắng hơn người da đen. Các nhà khoa học cũng chưa hiểu đầy đủ về nguyên nhân gây ra những điều này và họ vẫn tiếp tục nghiên cứu về ung thư tuyến giáp để cố gắng tìm hiểu xem điều gì có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh.
Tóm lược các yếu tố nguy cơ gây ra bệnh ung thư tuyến giáp:
Tiền căn xạ trị vùng cổ lúc nhỏ vì bệnh lành tính hoặc bị nhiễm phóng xạ (ví dụ sau tai nạn hạt nhân Chernobyl tỉ lệ ung thư tuyến giáp của cư dân vùng này tăng lên) làm gia tăng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến giáp biệt hoá cao với đỉnh cao nguy cơ từ 12-25 năm sau tiếp xúc.
Ảnh minh họa
Phơi nhiễm hexachlorobenzene và tetracholorodibenzo-p-dioxin.
Tiền căn gia đình có bệnh đa bướu nội tiết, hội chứng Pendred, hội chứng Gardner và hội chứng Cowden.
Vùng phình giáp dịch tễ thường gặp ung thư biểu mô dạng nang hay ung thư biểu mô không biệt hoá. Ung thư biểu mô dạng nhú thường gặp ở vùng đầy đủ i-ốt.
- Các đột biến về gen sinh ung thư và gen đè nén bướu trong ung thư tuyến giáp.
Hoạt hoá các gen tyrosine kinase: tái sắp xếp gen sinh ung RET/PTC ở nhiễm sắc thể 10 xảy ra trong 5-35% ung thư biểu mô dạng nhú tự phát.
Gia tăng biểu lộ gen sinh ung thư MET có trong 70% ung thư biểu mô dạng nhú.
Đột biến gen sinh ung thư RET cũng thấy trong ung thư biểu mô dạng tuỷ có tính gia đình.
Gen sinh ung thư RAS và đường dẫn truyền tín hiệu tế bào: đột biến RAS thường gặp trong ung thư biểu mô dạng nang ở vùng thiếu i-ốt.
Gen đè nén bướu p53: đột biến điểm gen p53 làm bất hoạt hoá gen này, thấy trong 80% ung thư biểu mô không biệt hoá.

Chẩn đoán ung thư tuyến giáp

Chẩn đoán ung thư tuyên giáp

- Chụp Xquang: Chủ yếu dùng để quan sát mối quan hệ giữa khí quản và tuyến giáp. Việc chụp Xquang phần cổ ngoài việc quan sát xem khí quản có tình trạng bị lệch vị trí hay có tình trạng bị chèn ép không, còn có thể quan sát bên trong tuyến giáp có tình trạng bị vôi hoá không nữa.
Siêu âm: Không chỉ có thể phát hiện được tình trạng, kích thước, số lượng của khối u bên trong tuyến giáp mà còn có thể xác định là khối u nang hay khối u rắn. Nếu như phát hiện các triệu chứng như tuyến giáp có khối u hoặc hạch bạch huyết cục bộ sưng to, nên tiến hành siêu âm.
Xét nghiệm tế bào: Xét nghiệm tế bào không chỉ giúp phân biệt rõ tính chất của khối u là lành tính hay ác tính mà còn có thể phân định rõ loại hình bệnh lý của khối u ác tính. Vì vậy, mỗi mẫu tuyến giáp đem đi xét nghiệm, thường được tiến hành kiểm tra cắt lớp.
Kiểm tra bằng phóng xạ hạt nhân: kiểm tra này có thể xác định rõ trạng thái, vị trị và chức năng của tuyến giáp, là phương pháp thường dùng trong chẩn đoán các bệnh trong tuyến giáp.
Chụp CT: Chụp CT có thể hiển thị rõ vị trí, trạng thái, kích cỡ của khối u và mối quan hệ giữa cổ họng, khí quản, thực quản, đồng thời có thể nhìn thấy mức độ xâm lấn của khối u. Có thể cung cấp dữ liệu đáng tin cậy cho việc chẩn trị ung thư tuyến giáp.
Khi chẩn đoán ung thư tuyến giáp, các bác sĩ có thể tiến hành nhiều xét nghiệm hơn để xem bệnh đang ở giai đoạn nào, nguyên nhân ung thư tuyến giáp... Trước khi tới các bệnh viện ung bướu chuẩn đoán tuyến giáp, tham khảo trước các triệu chứng ung thư tuyến giáp để trao đổi các bác sĩ rõ ràng hơn. Những kết quả của các xét nghiệm này giúp các bác sĩ lập kế hoạch điều trị ung thư tuyến giáp phù hợp.
Chẩn đoán sớm phát hiện sớm và điều trị sớm bệnh ung thư tuyến giáp, là mấu chốt trong việc tiên lượng bệnh. Nếu bạn phát hiện mình có các triệu chứng bất thường trong tuyến giáp, cần đến ngay bệnh viện chuyên khoa để làm các xét nghiệm và kiểm tra cần thiết.
Chẩn đoán ung thư tuyến giáp
- Chụp Xquang: Chủ yếu dùng để quan sát mối quan hệ giữa khí quản và tuyến giáp. Việc chụp Xquang phần cổ ngoài việc quan sát xem khí quản có tình trạng bị lệch vị trí hay có tình trạng bị chèn ép không, còn có thể quan sát bên trong tuyến giáp có tình trạng bị vôi hoá không nữa.
Siêu âm: Không chỉ có thể phát hiện được tình trạng, kích thước, số lượng của khối u bên trong tuyến giáp mà còn có thể xác định là khối u nang hay khối u rắn. Nếu như phát hiện các triệu chứng như tuyến giáp có khối u hoặc hạch bạch huyết cục bộ sưng to, nên tiến hành siêu âm.
Xét nghiệm tế bào: Xét nghiệm tế bào không chỉ giúp phân biệt rõ tính chất của khối u là lành tính hay ác tính mà còn có thể phân định rõ loại hình bệnh lý của khối u ác tính. Vì vậy, mỗi mẫu tuyến giáp đem đi xét nghiệm, thường được tiến hành kiểm tra cắt lớp.
Ảnh minh họa
Kiểm tra bằng phóng xạ hạt nhân: kiểm tra này có thể xác định rõ trạng thái, vị trị và chức năng của tuyến giáp, là phương pháp thường dùng trong chẩn đoán các bệnh trong tuyến giáp.
Chụp CT: Chụp CT có thể hiển thị rõ vị trí, trạng thái, kích cỡ của khối u và mối quan hệ giữa cổ họng, khí quản, thực quản, đồng thời có thể nhìn thấy mức độ xâm lấn của khối u. Có thể cung cấp dữ liệu đáng tin cậy cho việc chẩn trị ung thư tuyến giáp.
Khi chẩn đoán ung thư tuyến giáp, các bác sĩ có thể tiến hành nhiều xét nghiệm hơn để xem bệnh đang ở giai đoạn nào, nguyên nhân ung thư tuyến giáp... Trước khi tới các bệnh viện ung bướu chuẩn đoán tuyến giáp, tham khảo trước các triệu chứng ung thư tuyến giáp để trao đổi các bác sĩ rõ ràng hơn. Những kết quả của các xét nghiệm này giúp các bác sĩ lập kế hoạch điều trị ung thư tuyến giáp phù hợp.
Chẩn đoán sớm phát hiện sớm và điều trị sớm bệnh ung thư tuyến giáp, là mấu chốt trong việc tiên lượng bệnh. Nếu bạn phát hiện mình có các triệu chứng bất thường trong tuyến giáp, cần đến ngay bệnh viện chuyên khoa để làm các xét nghiệm và kiểm tra cần thiết.

Phương pháp điều trị ung thư tuyến giáp

Phương pháp điều trị ung thư tuyến giáp

Mặc dù đã điều trị, bệnh ung thư tuyến giáp có thể trở lại, ngay cả khi đã loại bỏ tuyến giáp. Điều này có thể xảy ra nếu các tế bào ung thư lan ra ngoài tuyến giáp trước khi nó loại bỏ. Lựa chọn điều trị ung thư tuyến giáp phụ thuộc vào loại và giai đoạn của ung thư tuyến giáp, sức khỏe tổng thể và sở thích.
Các loại ung thư tuyến giáp sẽ quyết định cách điều trị. Ung thư tuyến giáp dạng nhú (ung thư biểu mô nhú) thường gặp nhất, chiếm đến 80% các ung thư. Ung thư tuyến giáp dạng nang (ung thư biểu mô nang) chiếm khoảng 15%. Dạng nhú và dạng nang gộp lại gọi là ung thư biệt hóa, chiếm khoảng 90-95%, ở nữ có tỷ lệ mắc cao gấp 3-4 lần nam giới. Phần lớn gặp ở người từ 45 tuổi trở xuống. Ít ai biết đây là loại ung thư dễ trị khỏi, dĩ nhiên phải được điều trị đúng cách. Các loại hiếm gặp gồm ung thư giáp dạng tủy, có thể di truyền và ung thư giáp không biệt hóa, ác tính cao rất khó trị.
Phẫu thuật là phương thức chữa trị ung thư tuyến giáp phổ biến nhất đối với loại còn chưa lan sang các phần khác của cơ thể.
Ảnh minh họa
Điều trị tại chỗ bằng I-131 với ung thư tuyến giáp dạng nang hoặc nhú (với liều lớn hơn so với liều dùng để chụp tuyến giáp). I-ốt được bệnh nhân uống vào sẽ giúp điều trị tập trung tại các tế bào ung thư tuyến giáp còn sót lại trong cơ thể sau phẫu thuật. Bằng cách huỷ hoại những tế bào ung thư này, i-ốt phóng xạ giúp phòng chống bệnh tái phát trở lại. Các bệnh nhân phải nằm viện trong một vài ngày trong khi hoạt tính phóng xạ còn cao nhất. Liệu trình điều trị ung thư tuyến giáp có thể được lặp lại sau đó. Các hoóc-môn thường được dùng cho các bệnh nhân đã được phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp hoặc đã điều trị bằng i-ốt phóng xạ.
Các hoóc-môn thay thế cho những loại được ung thư tuyến giáp sản xuất trong điều kiện bình thường. Việc chữa trị ung thư tuyến giáp này cũng làm giảm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến còn sót lại trong cơ thể. Bác sĩ có thể cần phải tiến hành một số xét nghiệm theo dõi để xem bệnh nhân đã có một lượng phù hợp các hoóc-môn cần thiết hay chưa. Phẫu thuật không được chỉ định cho các bệnh nhân bị ung thư tuyến giáp đã lan rộng. Việc điều trị thông thường bao gồm phương pháp chữa trị hệ thống (diệt tế bào ung thư hoặc làm chậm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư tuyến giáp trong toàn cơ thể), chẳng hạn như hóa trị liệu, i-ốt phóng xạ trị liệu hoặc hoóc-môn trị liệu.
Xạ trị ngoài được dùng điều trị ung thư di căn xương và ung thư tuyến giáp loại không biệt hóa. Hóa trị chỉ được dùng khi các phương pháp khác không hiệu quả.
Các biến chứng: Mặc dù đã mổ lấy trọng tuyến giáp, nhưng ung thư có thể tái phát nhiều chục năm sau, dưới dạng các hạch cổ, các cục nhỏ ở nơi mô giáp còn sót hoặc di căn ở phổi hoặc xương. Nên biết rằng ung thư tuyến giáp tái phát hoặc di căn có thể trị tốt.

Phòng ngừa ung thư tuyến giáp

Phòng ngừa ung thư tuyến giáp

Vì không có triệu chứng đặc trưng rõ ràng nên việc phòng ngừa ung thư tuyến giáp là tương đối khó. Nếu muốn biết mình có nguy cơ cao bị các loại ung thư tuyến giáp có tính di truyền, bạn nên đi làm xét nghiệm máu. Những người nào được phát hiện có nguy cơ bị ung thư, có thể cần phải cắt bỏ tuyến giáp để phòng ung thư dù là chưa có triệu chứng gì cả.
Việc theo dõi định kỳ sau điều trị ung thư tuyến giáp là rất quan trọng. Theo dõi bao gồm khám lâm sàng toàn thân, chụp Xquang, chụp xạ hình, xét nghiệm máu định kỳ. Tìm hiểu dấu hiệu ung thư tuyến giáp, các triệu chứng ung thư tuyến giáp điều trị hiệu quả nhất.

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Đau tạo ra phản xạ rút lui còn ngứa tạo ra phản xạ gãi. Những sợi thần kinh không myelin của cảm giác ngứa và đau đều xuất phát từ da, tuy nhiên chúng chuyển thông tin về trung ương đến 2 hệ thống khác nhau đều dùng chung một bó sợi thần kinh ngoại biên
  • 28-05-2018
    Viêm niệu đạo là hiện tượng viêm nhiễm (sưng đỏ) niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài). Viêm niệu đạo không do lậu (NGU) thường gây ra do vi khuẩn Chlamydia. Đây là bệnh lây truyền qua đường tình dục phổ biến nhưng có thể hạn chế bằng các
  • 17-10-2018

    Thần kinh quay ở tay điều khiển các cơ ở cánh tay, cẳng tay, cổ tay và ngón tay làm động tác gấp duỗi cánh tay và duỗi ngón tay. Nó còn chi phối cảm giác ở bàn tay và một số ngón. Bệnh thần kinh quay là tình trạng viêm (sưng) của dây thần kinh do bị

  • 28-05-2018
    Huyết khối tĩnh mạch sâu là một bệnh thường gặp, có thể gây biến chứng thuyên tắc phổi rất nghiêm trọng. Huyết khối tĩnh mạch sâu là gì? Động mạch đem máu giàu ôxy từ tim đến phần còn lại của cơ thể, trong khi tĩnh mạch mang máu nghèo ôxy trở lại tim.
  • 28-05-2018
    Bọng nước Pemphigoid là một bệnh về da hiếm gặp. Bệnh bắt đầu với những vết đỏ hoặc nổi mẩn (nổi mề đay) và thay đổi thành những bọng nước lớn sau vài tuần hoặc vài tháng. Bệnh có thể tiến triển mãn tính nếu kéo dài hoặc quay trở lại sau khi lành bệnh.
  • 28-05-2018
    Thiếu máu là một tình trạng đôi khi có thể xảy ra ở trẻ nhỏ. Tình trạng này có thể làm cho con bạn quấy chướng, mệt mỏi và suy yếu. Mặc dù các triệu chứng này có thể làm bạn lo lắng, nhưng hầu như các trường hợp thiếu máu đều có thể điều trị dễ dàng.