Mối liên hệ giữa đái tháo đường và nhồi máu cơ tim

Kiểm soát chỉ số đường huyết sau ăn bình thường và ổn định đã làm giảm một cách có ý nghĩa tỷ lệ mắc các bệnh tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ), bởi chỉ số đường huyết sau ăn tăng vọt là một trong những yếu tố nguy cơ tim mạch hàng đầu. Hiện nay đây là một trong những mục tiêu điều trị quan trọng đối với người bệnh ĐTĐ tại nhiều quốc gia trên thế giới.

ĐTĐ và nguy cơ biến chứng tim mạch

ĐTĐ týp 2 được định nghĩa bởi tình trạng tăng đường huyết mạn tính. ĐTĐ là một nguy cơ chính của các bệnh tim mạch. Nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ cao gấp 2-10 lần so với người không ĐTĐ.

Những yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành có thể điều chỉnh và thay đổi được đó là tăng huyết áp động mạch, rối loạn lipid máu với LDL – C tăng, HDL – C giảm và nồng độ hemoglobine Alc (HbAlc). Với những bệnh ĐTĐ túp 2, những yếu tố nguy cơ này cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ, nhất là đường huyết và/ hoặc nồng độ HbAlc. Cần nhấn mạng rằng, tần suất các biến chứng tim mạch do tổn thương vi mạch hay các mạch máu lớn đều liên quan đến sự cân bằng đường huyết và biến chứng tim mạch tăng lên rõ rệt ngay khi tỷ lệ HbAlc vượt quá 6%. Tỷ lệ nhồi máu cơ tim trong 10 năm giảm tới 15 % nếu nồng độ HbAlc giảm 0,9%. Điều này chứng tỏ kiểm soát đường huyết là một mục tiêu đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân ĐTĐ. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của Hội đái tháo đường Hoa kỳ thì không nên sử dụng HbAlc như một chỉ số duy nhất để chứng tỏ sự ổn định về nồng độ đường trong máu bệnh nhân mà cần phải lưu ý đến lượng đường huyết sau ăn của người bệnh.

“Thủ phạm” tăng đường huyết sau ăn

Chỉ chú ý điều chỉnh nồng độ đường huyết khi đói ở bệnh nhân đái tháo đường là chưa đầy đủ. Người ta nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ týp 2 tương quan với lượng đường trong máu sau ăn và không liên quan với lượng đường trong máu khi đói. Điều chỉnh nồng độ đường huyết khi đói hoặc AbAlc hoặc cả hai mà không điều chỉnh đường huyết sau ăn sẽ không làm giảm được tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ. Ngược lại, kiểm soát chặt chẽ đường huyết trước và sau ăn cho phép làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tim mạch.

Người ta nhận thấy rằng tần suất nhồi máu cơ tim cao hơn 40% ở những bệnh nhân có nồng độ đường huyết sau ăn lớn hơn 10mmol/l so với những bệnh nhân có nồng độ đường huyết sau ăn thấp hơn 8mmol/l. Hàng loạt các nghiên cứu khoa học đã nhấn mạnh sự tương quan giữa mức độ tăng đường huyết sau ăn và nguy cơ tử vong tim mạch, độc lập với nồng độ đường huyết khi đói của bệnh nhân. Theo những nghiên cứu gần đây, nguyên nhân của hiện tượng này là do những dao động tức thì của nồng độ đường trong máu sau ăn đã làm biến đổi sự giải phóng gốc tự do và biến đổi các sản phẩm tạo ra từ gốc tự do. Thêm vào đó, chức năng nội mạc của mạch máu cũng thay đổi và nồng độ ô

xít nitơ (NO) bị biến loạn. Ngoài ra, tăng đường huyết sau ăn gây rối loạn hoạt động chức năng của các sợi collagen trong cấu trúc mạch máu và giảm thiểu khả năng giãn của các mạch máu trong cơ thể người bệnh.

Cần kiểm soát đường huyết sau ăn

Hiện nay phần lớn bệnh nhân ĐTĐ tử vong đều do các biến chứng liên quan đến vữa xơ động mạch. Trong số các yếu tố cơ bản, tăng đường huyết mạn tính thể hiện bằng nồng độ HbAlc giữ vị trí hàng đầu. Tuy nhiên, nhiều thử nghiệm điều trị có kiểm soát được tiến hành ngẫu nhiên trên số lượng lớn bệnh nhân ĐTĐ đã đưa ra những kết luận quan trọng về hiệu quả điều chỉnh đường huyết sau ăn trong phòng ngừa tiên phát và thứ phát bệnh lý tim mạch. Vì thế, không nên quan niệm chỉ cần khống chế lượng đường trong máu khi đói và/ hoặc HbAlc của bệnh nhân ổn định là đạt mục tiêu điều trị.

Bình thường hóa và ổn định đường huyết khi đói, nồng độ HbAlc, nồng độ đường huyết sau ăn cần phải tiến hành một cách hệ thống và đồng bộ ngay từ khi chẩn đoán xác định người bệnh bị đái tháo đường hoặc rối loạn dung nạp glucose là những quan niệm mới trong kiểm soát và điều trị tích cực bệnh ĐTĐ hiện nay.

Hiện nay, biện pháp hiệu quả phòng ngừa nguy cơ biến chứng tim mạch đối với người bệnh ĐTĐ týp 2 là quan niệm điều trị tích cực: tiếp cận chẩn đoán sớm, điều trị đồng bộ nhằm bình thường hóa và ổn định đường huyết khi đói và đặc biệt là đường huyết sau ăn.

- 28-05-2018 -