Loét Áp-tơ miệng

Loét áp-tơ miệng là gì?

Loét áp-tơ là những vết loét ở miệng đau, khu trú, nông, hình tròn hoạc oval với đáy màu xám. Loét áp-tơ là một trong những nguyên nhân phổ biến nhất trong các loại loét miệng. Áp-tơ tái phát có thể gặp ở những người mắc bệnh Celiac và chứng viêm ruột mạn hoặc người bị suy giảm miễn dịch (nhiễm HIV).

Trong hình ảnh có thể có: một hoặc nhiều người và cận cảnh

Bệnh loét áp-tơ miệng. (Ảnh minh họa)

Nguyên nhân gây loét áp-tơ miệng

Nguyên nhân và sinh bệnh học – sinh bệnh học của áp-tơ cũng chưa rõ ràng. Một giả thuyết cho rằng áp-tơ có thể là do rối loạn tại chỗ qua trung gian miễn dịch tế bào, cùng sự giải phóng của các cytokine tiền viêm.

Các yếu tố làm gia tăng sự xuất hiện áp tơ gồm: yếu tố gia đình, chấn thương, hormone, stress. Sự thiếu hụt của vitamin và chất khoáng cũng có liên quan tới áp-tơ tái phát, đặc biệt là thiếu hụt vitamin B12. Tuy nhiên, một thử nghiệm ngẫu nhiên ở 120 bệnh nhân bị áp-tơ, việc cung cấp multivitamin đã không làm giảm được số đợt và thời gian một đợt của áp-tơ trong năm.

Mặc dù có một vài nghiên cứu quan sát báo cáo có sự gia tăng phát triển áp-tơ tạm thời sau khi ngưng hút thuốc lá, nhưng các nghiên cứu khác lại không phát hiện ra mối liên quan này.

Các nguyên nhân khác gây áp-tơ bao gồm việc sử dụng các thuốc như: MTX và tình trạng giảm bạch cầu đa nhân do mọi nguyên nhân.

Đặc điểm lâm sàng của áp-tơ miệng

Biểu hiện phổ biến nhất của áp-tơ đó là sự hiện diện của các vết loét hình tròn hoặc oval, ranh giới rõ ràng, nhỏ, và đau, đáy xám màu thường tự lành sau 10 - 14 ngày mà không để lại sẹo.

Trong tình huống nặng hơn, vết loét có thể rộng (> 5 mm) và có thể kéo dài tới 6 tuần lễ, tuy nhiên tình trạng này thì ít gặp. Đôi khi, nhiều vết loét và nhú nhỏ có thể tập trung lại thành từng cụm gọi là Herpetiform và có thể kéo dài 7 - 10 ngày. Sodium lauryl sulfate (đồng phân natri lauryl sulfat, là một hợp chất hữu cơ tổng hợp với công thức CH3 11SO4Na. Nó là một chất hoạt động bề mặt anion được sử dụng trong nhiều sản phẩm làm sạch và vệ sinh. Muối natri là một chất hữu cơ sulfat) chất tẩy trong kem đánh răng có thể kéo dài thời gian làm lành vết loét.

Một vài người có thể bị từ 2 - 4 đợt trong 1 năm trong khi một số người khác có thể bị liên tục. Bệnh thường gặp ở trẻ em và thiếu niên nhiều hơn là người lớn.

Điều trị bệnh áp-tơ miệng

Hầu hết điều trị áp-tơ là nhằm làm giảm triệu chứng, có thể sử dụng triamcinolon thoa vết loét, gel fluocinonide và các thuốc giảm đau tại chỗ khác. Có thể dùng 2 - 4 lần/ngày cho đến khi vết loét lành. Nếu thoa sớm thì vết loét lành nhanh hơn.

Chấm dung dịch hóa chất chẳng hạn như bạc nitrate hay Debacterol cũng có ích, nó có thể giải quyết tình trạng đua nhanh hơn mặc dù nó không giúp làm lành vết loét nhanh hơn. Nên gây tê tại chỗ bằng lidocain trước khi bôi hóa chất và bệnh nhân nên súc miệng vài phút sau khi làm xong.

Chích Glucocorticoid vào vết loét hoặc uống được chỉ định cho các tổn thương tái phát hoặc bệnh nặng. Colchicine, dapsone, pentoxifylline, interferon alfa, và levamisole cũng có thể có giá trị điều trị trong các trường hợp nặng.

Thalidomide đã được nghiên cứu ở bệnh nhân bị áp-tơ nặng. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên ở những bệnh nhân HIV bị áp-tơ, điều trị với thalidomide 200 mg/ngày trong 4 tuần. Kết quả cho thấy lành vết loét ở 16/29 bệnh nhân (55%) trong nhóm có dùng thuốc. Trong khi ở nhóm dùng giả dược chỉ có 2/28 bệnh nhân là lành chiếm 7%. Một nghiên cứu hồi cứu ở 92 bệnh nhân không có HIV bị áp-tơ (trong đó có 16 bệnh nhân bệnh nhân bị hội chứng behcet’s) cũng báo cáo là thuốc này có hiệu quả ở liều thấp, với liều khởi đầu là 50 mg/ngày thalidomide làm giảm hoàn toàn ở 85% bệnh nhân trong vòng 14 ngày. Tái phát là tình trạng thường gặp của liệu pháp này, duy trì liều thấp làm giảm được tái phát. Thalidomide có thể gây ra quái thai nên không dùng được cho phụ nữ có thai.

BS Trần Văn Công

Phòng khám Quốc tế Victoria Healthcare

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan