Viêm phổi do nấm

Nấm phổi là loại bệnh hay gặp ở xứ nhiệt đới nóng, ẩm và mưa nhiều như Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết đến bệnh này, ngay cả nhiều bác sĩ đa khoa và bác sĩ gia đình cũng không biết bệnh này. Theo y văn, u nấm phổi được báo cáo với tần suất

Tổng quan về bệnh viêm phổi do nấm

Nấm phổi là loại bệnh hay gặp ở xứ nhiệt đới nóng, ẩm và mưa nhiều như Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết đến bệnh này, ngay cả nhiều bác sĩ đa khoa và bác sĩ gia đình cũng không biết bệnh này.
Theo y văn, u nấm phổi được báo cáo với tần suất ngày càng tăng cùng với việc sử dụng rộng rãi các loại thuốc hóa trị liệu và ức chế miễn dịch trong điều trị bệnh ung thư và ghép tạng. Có tới 20% số bệnh nhân ung thư máu cấp đang điều trị bằng hóa chất mắc căn bệnh này.
Trong các loài nấm gây bệnh ở phế quản và phổi, có 3 loài thường gặp nhất là aspergillus, candida, crytococcus. Chúng thường gây ra các bệnh lý phổ biến sau:
  • U aspergillus: Người bệnh thường ho ra máu (lượng ít, hay tái phát), hoặc có bất thường trên phim Xquang lồng ngực mà không xuất hiện triệu chứng gì. Nếu ho ra máu ồ ạt, tính mạng bệnh nhân sẽ bị đe dọa, phải phẫu thuật cắt bỏ khối u.
  • Aspergillus tấn công: Hầu như chỉ xảy ra ở người bị tổn thương hệ miễn dịch, đặc biệt là người có bệnh lý ác tính về huyết học, trẻ em có bệnh u hạt mạn tính. Triệu chứng thường là thở nhanh, ho khan, đau ngực, sốt. Các triệu chứng này xuất hiện đột ngột hoặc tiến triển âm ỉ.
  • Nhiễm candida phổi: Triệu chứng thường là sốt kéo dài, hoặc không biểu hiện gì rồi dần xuất hiện các triệu chứng ho, khạc đàm, đau ngực, khó thở. Ngoài ra, bệnh nhân còn có các biểu hiện tổn thương da, viêm cơ, viêm nội nhãn... Nếu phát hiện sớm thì việc điều trị tương đối khả quan.
  • Nhiễm nấm crytococcus: Tổn thương bao giờ cũng ở phổi nhưng khó biết vì bệnh diễn biến âm thầm, người bệnh thấy nhức đầu nhiều, nôn mửa, cứng gáy, sốt vừa phải, thậm chí có các rối loạn tâm thần.

Triệu chứng bệnh viêm phổi do nấm

Triệu chứng bệnh phổi do nấm

  • Nếu hít phải bào tử nấm vào phổi có thể sẽ bị viêm phổi nang sợi mạn tính hoặc nhiễm nấm lan tỏa cấp tính. Bệnh viêm phổi nang sợi mạn tính thường gặp nhiều hơn với các triệu chứng: bệnh khởi phát từ từ trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng, ho khan tăng dần, sút cân, đổ mồ hôi về đêm. Nếu đi khám bệnh, chụp Xquang thấy hình ảnh thâm nhiễm hoá xơ hạch ở đỉnh phổi một hay cả hai bên.
  • Diễn tiến của bệnh theo hai hướng: tự ổn định, tự cải thiện sớm hoặc là tiến triển âm thầm. Tổn thương co rút và tạo hang xuất hiện ở những thùy phổi trên, đồng thời lan rộng đến các vùng khác của phổi. Các tổn thương tràn khí hoặc hình thành những bóng khí làm suy giảm chức năng hô hấp. Bệnh kéo dài dẫn đến tâm phế mạn hoặc nhiễm khuẩn phổi có thể gây tử vong.
  • Đối với thể bệnh lan toả cấp tính, các triệu chứng gồm: sốt, gầy sút nhanh, gan to, lách to, nổi hạch, vàng da. Xét nghiệm thấy thiếu máu, giảm bạch cầu và tiểu cầu. Lưu ý rằng các triệu chứng này cũng gặp trong bệnh lý viêm phổi nang sợi mạn tính, nhưng bệnh mạn tính có xu hướng khu trú nhiều hơn.
  • Khoảng 25% bệnh nhân có những vết loét cứng ở miệng, lưỡi, mũi, thanh quản. Bệnh nhân còn có thể bị viêm gan dạng hạt, loét đường tiêu hoá, viêm màng trong tim và viêm màng não mạn tính. Chụp Xquang thấy hình ảnh tổn thương ở phổi giống như lao kê.
Để chẩn đoán xác định bệnh nhiễm nấm Histoplasma, đối với bệnh nấm lan toả cấp tính, người ta dùng phương pháp nuôi cấy nấm từ các bệnh phẩm như: máu, tủy xương, các tổn thương ở niêm mạc, gan, dịch rửa phế quản. Viêm phổi mạn tính do nấm thì cấy đờm để phát hiện nấm gây bệnh.
  • Tuy nhiên, trên thực tế hầu hết bệnh nhân nhiễm nấm không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ như ho, sốt, mệt mỏi. Chụp Xquang có hình ảnh hạch rốn phổi, có thể có một hay nhiều vùng phổi viêm nên rất khó phát hiện bệnh. Một số bệnh nhân có xuất hiện ban đỏ nút và ban đỏ đa dạng. Một số bệnh nhân khác lại có viêm màng ngoài tim bán cấp.
  • Các cơ quan trong trung thất bị bao bọc bởi hiện tượng xơ hoá. Tình trạng chèn ép tĩnh mạch phổi, tĩnh mạch chủ trên, động mạch phổi và thực quản xảy ra trong nhiều năm. Ở giai đoạn muộn của bệnh trung thất, thấy tế bào nấm sống trong tổ chức bã đậu của hạch bạch huyết.

Nguyên nhân gây bệnh viêm phổi do nấm

Nguyên nhân bệnh viêm phổi do nấm

Nấm phổi là một bệnh danh chung chỉ các bệnh phổi do nấm gây ra. Có nhiều loại nấm có thể gây ra bệnh ở phổi như Candida, Aspergillus, Mucor, Cryptococcus nhưng thường gặp hơn cả là các loài nấm Aspergillus.
Xét về khía cạnh tần suất hay gặp thì các bệnh nấm phổi ít gặp hơn các bệnh nhiễm khuẩn ở phổi và đường thở. Tỷ lệ bị nấm phổi chỉ vào khoảng 0,02% trong tổng số các trường hợp mắc bệnh phổi. Tức là trong 10.000 người bệnh phổi chúng ta mới gặp 2 người bị bệnh phổi do nấm gây ra. Đây là một tỷ lệ thấp nếu so sánh với các nhiễm khuẩn ở phổi và đường hô hấp, chiếm 70-80% tuỳ vào độ tuổi. Tuy nhiên, nếu đã bị nhiễm nấm phổi thì mức độ lại nguy hiểm hơn nhiều do người nhiễm nấm chủ yếu là người mắc kèm theo các bệnh lý khác và nhiễm nấm thường gây những biến chứng nặng nề cho người bệnh.
Thông thường ở những người khoẻ mạnh hoặc mắc bệnh thông thường nào đó thì hệ miễn dịch của họ hoạt động tốt nên ít khi bị nhiễm nấm. Nấm chỉ có thể nhiễm vào cơ thể người bệnh khi sức miễn dịch của người bệnh bị suy yếu. Trong thành phần các kháng thể bảo vệ, nồng độ và khả năng hiệu dụng của các kháng thể dòng IgA trong lớp chất nhầy bề mặt giảm hẳn. Vì thế mà nấm dễ dàng nhiễm và gây bệnh.
Vì lý do sức khoẻ nên ở những trường hợp như thế này, chỉ riêng duy trì sức khỏe của người bệnh không thôi đã là cả một vấn đề lớn nói chi đến việc chống chọi với nấm. Vì thế, tỷ lệ người bị tử vong do nấm phổi có thể lên đến 80-90%. Những đối tượng nằm trong tâm điểm nhiễm nấm là người mắc bệnh tự miễn đang phải điều trị ức chế miễn dịch, bị bệnh ung thư tiến triển, phải điều trị ức chế miễn dịch, người phải ghép tạng, can thiệp tế bào gốc, ghép tủy, người bệnh HIV, thậm chí là những người bệnh quá suy kiệt và gầy mòn.

Yếu tố nguy cơ gây viêm phổi do nấm

Yếu tố nguy cơ viêm phổi do nấm

Bệnh dễ xảy ra với những người làm việc ở vùng đất ẩm, đặc biệt là đất có nhiều phân gà, vịt, chim hoặc phân dơi. Những người quét dọn hoặc tiếp xúc với chuồng gà vịt, vùng đất dưới gốc cây có nhiều chim đậu, dưới hang dơi rất dễ mắc bệnh.
Có nhiều loại nấm như:
  • Nấm Histoplasma capsulatum là loại nấm lưỡng hình, trông giống như một dạng mốc trong tự nhiên.
  • Nấm Coccidioides immitis là loại nấm hoại sinh trong đất.
  • Nấm Aspergillus gây bệnh cho người đều có ở khắp mọi nơi trong môi trường sống...
Người ta nhận dạng nấm dựa vào đặc điểm sợi nấm sinh ra những bào tử lớn và nhỏ, khi nuôi cấy nấm phát triển như một nấm hạt men mọc chồi tại mô của vật chủ hoặc trên thạch giàu dinh dưỡng. Bào tử của loại nấm này có kích thước rất nhỏ nên khi hít thở chúng có thể lọt vào đến tận phế nang, tại đây chúng chuyển dạng thành những thể chồi.
Khi bệnh tiến triển gây phản ứng viêm hạt mạnh, hoại tử bã đậu và canxi hoá trong phổi giống như bệnh lao. Ở người lớn nhiễm nấm có thể tạo thành mô sẹo hình khối tròn ở phổi. Đối với trẻ em bị nhiễm nấm lần đầu có thể khỏi hoàn toàn nhưng để lại những điểm canxi hoá ở hạch rốn phổi hay ở phổi; nhiễm nấm lan toả thoáng qua có thể tạo ra những u hạt lắng đọng canxi ở lách.

Chẩn đoán bệnh viêm phổi do nấm

Chẩn đoán bệnh phổi do nấm

Để chẩn đoán xác định, các bác sĩ thường áp dụng một số xét nghiệm cận lâm sàng như:
  • Chụp Xquang phổi thẳng, là xét nghiệm đầu tiên và rất cần thiết vì nó cung cấp rất nhiều thông tin về bệnh và những bệnh đi kèm: hình ảnh Xquang đặc hiệu thường thấy trên phim là hình một khối tròn, đặc, nằm trong một hang lao có hình cầu hoặc hình bầu dục, hình tròn đặc này thay đổi theo tư thế của bệnh nhân mà giới chuyên môn gọi là hình lục lạc. Với phim chụp phổi thông thường cho phép chúng ta chẩn đoán xác định đến 90% các trường hợp.
  • Chụp Xquang với máy điện toán cắt lớp còn gọi là chụp CT, dùng để xác định rõ u nấm trong một số trường hợp gặp phải khó khăn trong chẩn đoán với khám lâm sàng và Xquang phổi thông thường.
  • Huyết thanh chẩn đoán nấm Aspergillus: phản ứng kết tủa giữa kháng nguyên với kháng thể kháng nấm Aspergillus của người bệnh. Là xét nghiệm khá đặc hiệu, nó cho kết quả chẩn đoán xác định từ 93-100%. Nhưng không phải bệnh viện hay cơ sở y tế nào cũng thực hiện được vì thiếu trang thiết bị.

Phương pháp điều trị bệnh viêm phổi do nấm

Phương pháp điều trị bệnh phổi do nấm

  • Sử dụng thuốc kháng nấm: Ở một số bệnh nhân, có thể dùng thuốc kháng nấm điều trị toàn thân hoặc bơm trực tiếp vào hang nấm bằng một ống thông đặt xuyên qua da. Thuốc kháng nấm thường dùng là Amphotericin B. Tuy nhiên, kết quả không được là bao và vẫn chưa được công nhận trong y văn. Hơn thế nữa, thuốc Amphotericin B rất độc đối với bệnh nhân và khó tìm trên thị trường, vì vậy hiện nay hầu như không còn được áp dụng nữa.
  • Phương pháp bơm tắc mạch để cầm máu: được áp dụng trong những trường hợp cấp cứu, bệnh nhân bị ho ra máu ồ ạt kiểu sét đánh. Mặc dù, chưa được chẩn đoán xác định vẫn có thể chụp mạch máu chọn lọc và bơm chất gây tắc mạch để cứu sống bệnh nhân, động mạch được làm tắc thường là động mạch phế quản cung cấp máu để nuôi phổi.
    • Thủ thuật này chỉ được thực hiện ở những bệnh viện lớn có trang bị máy chụp Xquang động mạch kỹ thuật số như: Bệnh viện Chợ Rẫy, Trung tâm chẩn đoán Y khoa - Bệnh viện Nguyễn Trãi… Trong thủ thuật cần có sự kết hợp giữa bác sĩ phẫu thuật và bác sĩ Xquang.
    • Kết quả là cầm máu được trong 80-90% các trường hợp, tuy nhiên bệnh nhân vẫn có thể chảy máu lại, chỉ có 10-25% các trường hợp không bị ho ra máu tái phát. Do vậy, khuynh hướng hiện nay trên thế giới là chỉ dùng thủ thuật này trong những trường hợp cấp cứu.
  • Phẫu thuật cắt phổi: một điều trị bắt buộc, phần lớn các tác giả đều chủ trương khi đã phát hiện u nấm thì phải cắt phổi dự phòng. Trong khi đó một số tác giả khác đề nghị chỉ cắt phổi trong những trường hợp có ho ra máu. Vì những lý do thường gặp trong phẫu thuật như nguy cơ chảy máu trong mổ rất cao do phổi bị các tổn thương mạn tính như lao, giãn phế quản… trước đó gây dính rất nhiều, rất khó cầm máu vì máu chảy rỉ rả từ các chấn thương trên thành ngực trong lúc phẫu tích. Với những phẫu thuật viên có kinh nghiệm, lượng máu mất vẫn có khi lên đến cả 1.000ml, tức là 4 đơn vị. Chính vì vậy, không phải bác sĩ phẫu thuật nào cũng thích mổ u nấm phổi. Mục đích chính của cuộc mổ là cắt đi một phân thùy, một thùy phổi hay một phần phổi có giới hạn là nguồn gốc làm cho bệnh nhân ho ra máu. Phần phổi được cắt cũng phải thật giới hạn nhằm bảo tồn chức năng hô hấp cho bệnh nhân sau mổ. Việc cắt toàn bộ một lá phổi chỉ được dùng trong những trường hợp tổn thương lan tỏa, u nấm lan rộng khắp một bên phổi, hoặc tổn thương lao đã hủy hoại toàn bộ phổi xung quanh u nấm.

Phòng bệnh viêm phổi do nấm

 
  • Khi lao động, tập luyện hay thực hiện các hoạt động có tiếp xúc với đất, cát, bụi bẩn..., cần phải đeo khẩu trang để ngăn ngừa việc hít phải nấm gây bệnh. Những công việc như khai quật khảo cổ, săn bắn, luyện tập quân sự, xây dựng công trình, người lao động phải mặc trang phục che kín da và mặt để tránh nấm xâm nhập qua mũi, miệng, mắt, da.
  • Quản lý tốt, tránh cho trẻ em chơi, tiếp xúc với đất cát bụi bẩn như ở vườn, ruộng, đường đất, đeo khẩu trang cho trẻ khi đi đường.
  • Vệ sinh phòng ở, buồng nằm và buồng điều trị. Mở rộng cửa ra để lấy ánh nắng làm chết nấm mốc và làm khô phòng ở. Không được để rơi vãi thực phẩm ra phòng ở vì thực phẩm hữu cơ là nguồn sống duy nhất của những vi sinh vật này. Nền nhà phải sạch sẽ và không có quá nhiều đồ đạc. Khi lau dọn cần phải đeo khẩu trang để tránh hít phải bụi nấm. Đoạn tường ẩm mốc cần được nạo đi và phủ bằng lớp chống bám. Làm được những điều này thì chúng ta sẽ bảo vệ được người thân một cách tối đa. Trong những trường hợp nghi nhiễm nấm phổi, chúng ta có thể dự phòng bằng thuốc chống nấm nhưng phải được sự hướng dẫn của các nhà chuyên môn.

(nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 28-05-2018
    Dị ứng xảy ra khi cơ quan giúp cơ thể chống lại bệnh tật (hệ thống miễn dịch) phản ứng quá mức/quá mẫn khi ăn, hít thở, bị tiêm/chích/đốt hoặc sờ vào một chất mà bình thường vốn không gây hại (còn gọi là một dị nguyên/chất gây dị ứng). Dị ứng không phải
  • 17-10-2018

    Viêm gân cơ quay khớp vai là viêm các gân tại chóp xoay vai. Vai có phạm vi di chuyển lớn hơn tất cả các khớp khác và cũng thường bị chấn thương hơn. Cơ delta lớn và khỏe cung cấp nhiều lực cho các cử động của vai nhất. Bên dưới cơ này là bốn cơ quay

  • 28-05-2018
    Bệnh run vô căn (hay còn gọi là bệnh run chân tay hoặc run không rõ nguyên nhân) là sự co cơ theo nhịp không có chủ ý. Run vô căn có thể ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận của cơ thể, nhưng thường xuất hiện nhất là ở bàn tay, đặc biệt là khi bạn đang
  • 19-04-2022

    Tứ chứng Fallot là một bệnh tim bẩm sinh. Bệnh này là một tổ hợp bốn khuyết tật tim: Hẹp phễu động mạch phổi, thông liên thất, động mạch chủ nằm trên vách liên thất, phì đại thất phải.

  • 08-06-2018
    Viêm thận kẽ là một rối loạn về thận gây ra do sự viêm nhiễm của các ống thận và các khoảng trống giữa các ống thận và tiểu cầu thận. Viêm thận kẽ liên quan đến sự viêm nhiễm của các khoảng trống giữa các ống thận và có thể bao gồm cả viêm nhiễm các ống thận.
  • 28-05-2018
    Viêm tụy cấp là chứng viêm (sưng) ở tụy và thường xảy ra đột ngột. Tuyến tụy sản xuất ra một chất được gọi là dịch tụy (chứa enzyme tiêu hóa) và hormone bao gồm insulin để cơ thể điều chỉnh lượng glucose. Sự tổn thương liên tục của tuyến