Viêm họng mạn tính

Viêm họng mạn tính là tình trạng viêm mạn tính niêm mạc họng (được cấu tạo bởi lớp liên bào, tuyến nhầy và nang lympho), rất hay gặp. Bệnh thường phối hợp với các bệnh viêm mũi, xoang mạn tính, viêm thanh, khí phế quản mạn tính. Viêm họng mạn tính thể

Viêm họng mạn tính là gì?

Viêm họng mạn tính là tình trạng viêm mạn tính niêm mạc họng (được cấu tạo bởi lớp liên bào, tuyến nhầy và nang lympho), rất hay gặp. Bệnh thường phối hợp với các bệnh viêm mũi, xoang mạn tính, viêm thanh, khí phế quản mạn tính.
Viêm họng mạn tính thể hiện dưới 3 hình thức: xuất tiết, quá phát và teo. Các bệnh tích có thể toả lan hoặc khu trú.

Các triệu chứng của viêm họng mạn tính

Các triệu chứng của viêm họng mạn tính

1. Triệu chứng cơ năng

  • Cảm thấy khô họng, nóng rát trong họng hoặc có cảm giác ngứa họng, vướng họng nhất là khi ngủ dậy, phải cố khạc đờm, đằng hắng để làm long đờm, đờm dẻo và đặc thường tăng lên khi nuốt.
  • Bệnh nhân thường phải khạc nhổ luôn, có ít nhầy quánh.
  • Ho nhiều vào ban đêm, khi lạnh.
  • Nuốt hơi nghẹn.
  • Tiếng nói bị khàn trong giây lát rồi trở lại bình thường.
  • Khi uống rượu, hút thuốc lá nhiều, nói nhiều, triệu chứng trên càng trở nên rõ rệt.

2. Triệu chứng thực thể

Tuỳ theo tổn thương, có thể thấy các thể:

* Viêm họng mạn tính xuất tiết:

  • Niêm mạc họng đỏ, ướt, có chất xuất tiết nhầy, trong dính vào thành sau họng.
  • Khạc hay rửa hút đi thấy thành sau họng không nhẵn, có nổi vài tia máu và nang lympho nổi lên thành những hạt nề, đỏ.

* Viêm họng mạn tính quá phát:

  • Niêm mạc họng dày và đỏ, cạnh trụ sau của amiđan niêm mạc nề dày lên làm thành trụ giả (vì vậy bệnh nhân rất nhạy cảm ở họng và rất dễ buồn nôn).
  • Thành sau họng có các nang lympho phát triển mạnh, quá sản dầy thành những đám nề, màu hồng hay đỏ lồi cao hơn thường gọi đó là viêm họng hạt.
  • Màn hầu và lưỡi gà cũng trở nên dầy, eo họng bị hẹp.
  • Niêm mạc loa vòi Eustache cũng quá sản (bệnh nhân thấy ù tai).
  • Mép sau của thanh quản bị dầy (nên bệnh nhân ho, khàn tiếng, xuất tiết nhiều).

* Viêm họng mạn tính teo:

  • Quá phát lâu ngày chuyển sang teo.
  • Tuyến nhầy và nang lympho xơ hoá.
  • Niêm mạc trở lên nhẵn mỏng, trắng bệch có mạch máu nhỏ.
  • Eo họng rộng ra.
  • Tiết nhầy khô lại biến thành vảy dính vào niêm mạc (bệnh nhân phải đằng hắng hoặc ho luôn).

Nguyên nhân gây viêm họng mạn tính

Nguyên nhân gây viêm họng mạn tính

Các nguyên nhân gây viêm họng mạn tính bao gồm:

  • Ngạt tắc mũi do nhiều nguyên nhân trong đó có: dị hình vách ngăn, polyp mũi... phải thở bằng miệng kéo dài, nhất là về mùa lạnh.
  • Viêm mũi, xoang nhất là viêm xoang sau: nhầy mủ luôn chảy xuống thành sau họng.
  • Các chất kích thích như: khói thuốc lá, rượu bia, bụi, sợi bông, hoá chất...
  • Yếu tố cơ địa: thể địa dị ứng, suy gan, đái đường...

Điều trị viêm họng mạn tính

Điều trị viêm họng mạn tính

1. Điều trị nguyên nhân

  • Giải quyết các ổ viêm tiềm tàng ở mũi, xoang (viêm xoang sau), viêm amiđan.
  • Giải quyết sự lưu thông của mũi: dị hình vách ngăn, polype mũi, thoái hoá cuốn mũi dưới...
  • Loại bỏ các kích thích như: bụi, hoá chất, thuốc lá, rượu...
  • Điều trị dị ứng (nếu do thể địa).

2. Điều trị tại chỗ

* Giai đoạn xuất tiết:

  • Súc họng bằng dung dịch kiềm như: BBM, nước muối nhạt...
  • Bôi và chấm họng bằng glycerin borat 3%, S.M.C (Salicylat natri, menthol).
  • Khí dung họng: Hydrocortison + kháng sinh.
  • Nếu có nhiều nhầy dính ở thành sau họng thì rửa bằng dung dịch borat natri 1% cho hết vảy, bôi họng và khí dung.

* Giai đoạn quá phát: Đốt điện nóng, cao tần hoặc đốt bằng nitơ lỏng hay laser.

* Giai đoạn teo: bôi glyxêrin iốt 0,5% hoặc mỡ thuỷ ngân 1%.

Phòng ngừa viêm họng mạn tính

Phòng ngừa viêm họng mạn tính
  • Đeo khẩu trang bảo hộ khi tiếp xúc với bụi và hoá chất.
  • Súc họng hàng ngày bằng dung dịch kiềm ấm hoặc nước muối sinh lý.
  • Nâng cao thể trạng: cho uống các vitamin A, D2, uống nước suối, nước khoáng.

(Nguồn Sức khỏe đời sống và Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe Trung ương)

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan

  • 17-10-2018

    Sái khớp háng là một dạng chấn thương háng. Tình trạng này xảy ra khi cơ bên trong đùi và vùng háng bị một lực tác dụng mạnh hoặc đột ngột dẫn đến các cơ này bị căng quá mức hoặc thậm chí bị rách. Sái khớp háng sẽ gây đau và ảnh hưởng đến khả năng hoạt

  • 28-05-2018
    Hẹp môn vị nếu không được điều trị kịp thời sẽ dẫn đến tình trạng rối loạn nước và điện giải, mất nhiều natri, kali và clo trong máu gây nên tăng dự trữ kiềm gọi là tình trạng nhiễm kiềm chuyển hóa. Điều trị hẹp môn vị chủ yếu là điều trị ngoại khoa,
  • 28-05-2018
    Đa polyp gia đình (FAP) là một bệnh di truyền hiếm gặp. Bệnh gây ra những khối u phát triển trên bề mặt lớp biểu mô đại tràng (còn gọi là polyp). Những polyp này nếu không được điều trị kịp thời sẽ phát triển thành các khối u ác tính và gây ra ung thư
  • 28-05-2018
    Người đầu tiên mô tả đau dây thần kinh tam thoa là một thầy thuốc người Arập tên là Jurjani vào thế kỷ 11. Ông ta đã chú ý sự chèn ép mạch máu có thể là nguyên nhân đau dây thần kinh tam thoa. Ông đã mô tả: có một loại đau mà ảnh hưởng đến răng ở một
  • 28-05-2018
    Vẩy nến là bệnh da mãn tính thường xuất hiện và sau đó tự hết. Những tế bào da tái tạo quá nhanh, tích tụ và tạo thành những vảy óng ánh như bạc trên bề mặt da. Bệnh có thể nhẹ, nhưng cũng có thể diễn tiến nghiêm trọng.
  • 28-05-2018
    U hạt bẹn là bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (STDs). Bệnh thường gây tổn thương cho các cơ quan sinh dục, bẹn và vùng háng. Đây là bệnh phổ biến ở những vùng nhiệt đới và những nước đang phát triển. Nếu không được điều trị kịp thời, các cơ quan sinh