Những tiềm năng đầy hứa hẹn của cần sa sử dụng trong y tế

Cần sa (Marijuana) là một thuật ngữ dùng để chỉ loại cây sản sinh ra chất cannabis. Cần sa được liệt vào loại chất dễ gây nghiện và lạm dụng nhất nên được hạn chế sử dụng trong y tế và còn nguy hiểm hơn cả ma túy tổng hợp (ecstasy- 3.4methylenedioxy methamphetamin) và cocaine. Tuy nhiên cần sa vẫn có những tác dụng hấp dẫn trong những căn bệnh khó chữa trị nhất.

Sự khác biệt giữa cannabis, CBD và THC

Thuật ngữ “marijuana” và “canabis” đều chỉ đến các phân loại của cây cần sa chưa qua chế biến và các hợp chất chiết xuất từ cây cần sa.

Cannabidiol (CBD) và delta-9-tetrahydrocannibidol (THC) là loại chất được tìm thấy phổ biến nhất trong cây cần sa và có nhiều tác dụng trong y tế. Những hợp chất này được gọi chung là nhóm “cannabinoid”. Trong đó, THC chính là một hóa chất có ảnh hưởng đến thần kinh, tâm thần của người dùng còn CBD thì lại không ảnh hưởng đến thần kinh và không tạo ra các phản ứng tâm lý như THC.

Hiện nay, Cơ quan quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ FDA mới chỉ cấp phép cho hai thuốc tổng hợp từ cần sa là dronabinol và nabilone để cải thiện vấn đề ăn uống cho những bệnh nhân AIDS bị sút cân trầm trọng. Tuy nhiên chúng cũng có những khả năng điều trị những bệnh khác.

Những tiềm năng đầy hứa hẹn của cần sa sử dụng trong y tế
Thụ thể cannabidoid nội sinh (endocannabioid receptor) và ứng dụng của cần sa trong y tế

Não bộ có những thụ thể cannabidoid nội sinh. Các thụ thể này liên kết được với cả các chất cannabinoid nội sinh và ngoạisinh, và có tác dụng lên tế bào cơ thể con người như nhau. Các hợp chất cannabinoid có thể gây ra phản ứng ức chế hoặc kích thích đáp ứng từ các tế bào thần kinh bị ảnh hưởng. Chính cơ chế đó đã khiến cần sa được nhắm đến trong điều trị y khoa.

Các receptor của cần sa có liên quan đến sự thèm ăn, kiểm soát các cơn đau, bảo vệ não bộ, trung tâm chi phối đến vận động, giấc ngủ, nôn và buồn nôn, nhãn áp, trí nhớ, sự tăng trưởng của các khối u, nhu động ruột. Do vậy mà tiềm năng của cần sa dùng trong y tế là vô cùng to lớn, vì có thể tác động lên rất nhiều bệnh cũng như các triệu chứng bệnh.

Những tiềm năng của cần sa trong y tế

Rối loạn tâm lý sau chấn thương (PTSD): trong khi chúng ta đang ra sức chống lại các ảnh hưởng tiêu cực của cần sa thì có những quần thể dân số lại cần những tác dụng của cần sa tới sức khỏe. Đó chính là những người rối loạn tâm lý sau chấn thương. Cần sa có tác dụng giảm những cơn ác mộng về đêm ở những bệnh nhân trên.

Ung thư: bệnh nhân ung thư và bị AIDS là hai quần thể được chấp nhận để sử dụng cần sa y tế và cần sa để điều trị các chứng biếng ăn, suy mòn, buồn nôn và nôn ở bẹnh nhan ung thư đang điều trị hóa trị. Trong một nghiên cứu mới đây cần sa có thể giết chết các tế bào ung thư, ngăn chặn sự phát triển của tế bào, và làm chậm quá trình di căn của tế bào ung thư đến các tế bào khỏe mạnh khác.

Bệnh đa xơ cứng: cần sa có thể làm giảm các triệu chứng của bệnh đa xơ cứng nhất là triệu chứng co cứng. Co cứng có liên quan đến vấn đề cảm giác về co cứng hoặc sự co thắt cơ không chủ động. Co cứng là một triệu chứng phổ biến trong bênh đa xơ cứng nhưng các thuốc điều trị hiện nay khó có thể giải quyết được, do vậy mà cấn sa hứa hẹn là một trong những thuốc hấp dẫn trong lĩnh vực này.

Động kinh: cần sa đã được sử dụng từ rất lâu để điều trị động kinh nhưng gần đây mới được nghiên cứu một cách cụ thể, đặc biệt là các tác dụng của nó trên những bệnh nhân động kinh nhỏ tuổi trong bối cảnh các tác dụng phụ từ thuốc chống động kinh là quá sức với trẻ em. Chúng ta vẫn cần nhiều nghiên cứu về tác dụng của cần sa lên bệnh động kinh, nhưng hơn 4.000 năm kinh nghiệm về hiệu quả của cần sa cho phép chúng ta lạc quan hơn về kết quả của các nghiên cứu trong tương lai.

Những tiềm năng đầy hứa hẹn của cần sa sử dụng trong y tế
Rào cản lớn nhất để cần sa trở thành một loại thuốc y khoa là luật pháp. Những lo ngại không chỉ đến từ việc nghiên cứu mà còn đến từ mặt xã hội. Cần sa là một chất dễ gây nghiện, dễ bị lạm dụng quá mức do đó mà người ta đang đắn đo về mặt đạo đức trong nghiên cứu cũng như việc không kiểm soát được quá trình điều trị của bệnh nhân.

- 28-05-2018 -