Sẩy thai liên tiếp (chẩn đoán và điều trị)

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Sẩy thai liên tiếp (chẩn đoán và điều trị)
Nhận định chung

Sẩy thai tái diễn quen thói hoặc sẩy thai liên tiếp được định nghĩa trong nhiều năm liên tiếp mất ba hoặc nhiều lần thai nghén trước khi thai có thể sống được (< 500g). Sẩy thai tái phát hay mạn tính chiếm khoảng 0,4 - 0,8% tất cả các trường hợp thai nghén. Những bất thường liên quan đến việc sẩy thai liên tiếp có thể xác định được ở khoảng một nửa các cặp vợ chồng. Nếu một phụ nữ đã sẩy thai ba lần trước đấy mà không tìm thấy nguyên nhân, cô ta vẫn có 70 - 80% khả năng mang thai đến khi thai có thể sống được. Nếu như cô ta đã sẩy 4 hoặc 5 lần thì khả năng thai nghén đạt kết quả chỉ là 65 - 70%.

Sẩy thai liên tiếp là chấn đoán lâm sàng đúng hơn là chẩn đoán bệnh lý. Những dấu hiệu lâm sàng cũng tương tự như những điều được quan sát thấy ở các loại sẩy thai khác.

Điều trị

Điều trị trước khi thụ thai

Điều trị trước khi thụ thai nhằm phát hiện những khuyết tật của vợ hoặc chồng có thể góp phần làm sẩy thai. Thăm khám toàn trạng và phụ khoa kỹ lưỡng là cần thiết. Bệnh buồng trứng đa nang cần được loại trừ.

Nuôi cấy tử cung nên được chuẩn bị để tìm chlamydia, virus herpes và virus cự bào và việc nuôi cấy niêm mạc tử cung để tìm Ureaplasma urealyticum và Toxoplasma gondi. Xét nghiệm đường huyết ngẫu nhiên và nghiên cứu chức năng tuyến giáp (kể cả kháng thể giáp trạng) nên được làm.

Phát hiện yếu tố chống đông lupus và xét nghiệm kháng thể kháng nhân được chỉ định nếu như có tiền sử của hội chứng giống như lupus. Tổ chức niêm mạc tử cung nên được xét nghiệm vào giai đoạn sau phóng noãn của chu kỳ để xác định sự đáp ứng đầy đủ của niêm mạc tử cung với hormon.

Khả năng của cổ tử cung phải được xác định và việc soi buồng tử cung hay chụp tử cung được dùng để loại trừ u xơ dưới niêm mạc và những dị dạng bẩm sinh. Phân tích thể nhiễm sắc (nhiễm sắc tố) của cả hai vợ chồng loại trừ sự chuyển đoạn tương đồng (tìm thấy trong 5% cặp các vô sinh).

Những thực nghiệm gần đầy đã tập trung vào phức hợp tương hợp mô quan trọng (MHC) của thể nhiễm sắc số 6 mang vị trí và những gen khác có thể ảnh hưởng đến kết quả sinh sản.

Nhiều đôi vợ chồng có sẩy thai liên tiếp, đóng góp con số đáng kể về kháng nguyên HLA và một số phụ nữ biểu hiện thiếu kháng thể người mẹ phản ứng với lympho bào của người bố thông thường được tìm thấy ở những phụ nữ bình thường sau khi sinh đẻ thành công.

Các trung tâm có khả năng xếp loại HLA có thể xác định được những cặp vợ chồng mang gen bất thường có thể đóng một vai trò trong sẩy thai liên tiếp. Phương pháp miễn dịch tăng cường kháng thể người mẹ đáp ứng lại lympho bào của người bố vẫn còn nằm trong thực nghiệm.

Điều trị sau khi thụ thai

Cung cấp chăm sóc trước đẻ sớm và lập bảng thăm khám thường xuyên. Nghỉ ngơi hoàn toàn tại giường chỉ hợp đối với chảy máu hoặc đau. Liệu pháp hormon sinh dục steroid theo kinh nghiệm là chống chỉ định.

Tiên lượng

Tiên lượng rất khả quan nếu như chữa được nguyên nhân sẩy thai.

- 28-05-2018 -

Bài viết liên quan